Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng là nhà lãnh đạo mẫu mực, người cộng sản kiên cường, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sôi nổi, đầy gian lao, thử thách của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà đồng bào, đồng chí trìu mến gọi là Bác Tôn kính mến gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
Đồng chí Tôn Đức Thắng là người con ưu tú của An Giang giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, ngay từ khi còn là học sinh đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ở nước ngoài, hoạt động trong phong trào công nhân, công đoàn Pháp, đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen ngày 20-4-1919, ủng hộ Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xô-viết non trẻ, góp phần bảo vệ thành trì của cách mạng vô sản thế giới.
Trở về nước năm 1920, với lòng yêu nước nhiệt thành, đồng chí Tôn Đức Thắng đã kết hợp kinh nghiệm hoạt động của phong trào công nhân, công đoàn Pháp với thực tiễn phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, để tìm ra những hình thức, phương pháp tổ chức đấu tranh thích hợp.
Cuối năm 1920, đồng chí đã tập hợp anh em công nhân cùng chí hướng thành lập Công hội bí mật - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Công hội do đồng chí lãnh đạo đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình, bãi công, lãn công, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son (tháng 8-1925), đánh dấu bước phát triển mới về tinh thần đoàn kết và tính tổ chức của giai cấp công nhân nước ta.
Năm 1927, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do ông Nguyễn Ái Quốc sáng lập, bắt đầu hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin ở Nam Bộ. Ông Tôn Đức Thắng gia nhập tổ chức này và giữ trọng trách Ủy viên Kỳ bộ Nam Bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn - Chợ Lớn. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ.
Năm 1929, đồng chí Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt và kết án 20 năm tù khổ sai. Gần 17 năm bị giam cầm trong nhà tù thực dân ở Khám Lớn Sài Gòn và Côn Đảo, phải chịu đủ cực hình tra tấn dã man của kẻ thù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ cách mạng, là một trong những người thành lập Hội những người tù đỏ và sáng lập chi bộ Đảng đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo làm hạt nhân lãnh đạo, tạo sức mạnh chống chế độ lao tù tàn bạo, đấu tranh bảo vệ Đảng, biến lao tù thực dân, đế quốc thành trường học của những người cộng sản.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, từ nhà tù Côn Đảo trở về, vừa đặt chân lên đất liền, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tham gia ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, được phân công tham gia Xứ ủy Nam Bộ và sau đó được Đảng, Nhà nước giao đảm nhiệm các trọng trách: Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội (tháng 3-1946), Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt, tháng 5-1946), Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội (tháng 11-1946), Bộ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 4-1947), Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc (tháng 1-1948), Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội (năm 1948). Tháng 1-1948, ông Tôn Đức Thắng được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cùng tập thể Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, tháng 2-1951, đồng chí Tôn Đức Thắng được Đại hội bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và liên tục giữ trọng trách này cho đến cuối đời. Tháng 9-1955, đồng chí được phân công giữ chức vụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II (tháng 7-1960), đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trên cương vị Phó Chủ tịch nước, đồng chí đã cùng tập thể Trung ương Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là trên lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp.
Ngày 23-9-1969, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa III, đồng chí được bầu là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Tháng 6-1976, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từ trần vào ngày 30-3-1980. Với 92 tuổi đời, cuộc đời hoạt động cách mạng của ông Tôn Đức Thắng là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Trên 70 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, được Đảng, Nhà nước ta trao tặng Huân chương Đại đoàn kết; được Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trao tặng Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Mông Cổ, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cu Ba trao tặng Huân chương Hữu nghị Cu Ba, Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin - Huân chương cao nhất của Liên Xô,… cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta càng thêm kính trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đồng chí - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người chiến sĩ hết sức trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một nhà lãnh đạo mẫu mực của Đảng, của dân tộc ta, đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là dịp để chúng ta học tập, làm theo đồng chí Tôn Đức Thắng - một gương mẫu đạo đức cách mạng; suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
(Theo tài liệu của BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG)