Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 36, sáng 14/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).
Sáng 14/8, UBTVQH cho ý kiến về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi). Ảnh: quochoi.vn
Đề nghị lấy ý kiến nhân dân rộng rãi về nhiều vấn đề
Quy định tuổi nghỉ hưu là một trong những vấn đề còn có ý kiến khác nhau được Uỷ ban Về các vấn đề xã hội báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH).
Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, tại kỳ họp thứ Bảy (tháng 5/2019), khi thảo luận về dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với quy định theo phương án 1 do Chính phủ trình quy định về lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, tức là đến năm 2028 sẽ có lao động nam đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 62 và năm 2035 sẽ có lao động nữ đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 60. Tuy nhiên, một số ý kiến đại biểu còn băn khoăn về quy định nâng tuổi nghỉ hưu so với hiện hành và đề nghị làm rõ về việc quy định chênh lệch tuổi nghỉ hưu (02 tuổi) giữa lao động nam và lao động nữ; đồng thời cũng cho rằng việc quy định này sẽ dẫn đến nhiều tranh luận khác nhau giữa “tuổi nghỉ hưu” và “tuổi nghề”.
Về vấn đề này, Ủy ban về các vấn đề xã hội thấy rằng, đề xuất quy định điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 28-NQ/TW và với mục tiêu lâu dài để chủ động chuẩn bị ứng phó với quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh của Việt Nam. Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần lộ trình điều chỉnh chậm sẽ có tác động tốt hơn đến tâm lý xã hội của người lao động và doanh nghiệp, tránh tác động, phản ứng quá mạnh đối với người lao động và thị trường lao động.
Ủy ban nhấn mạnh thêm: Việc quy định về tuổi nghỉ hưu cần phải được khẳng định là tuổi nghỉ hưu chung của quốc gia đối với người lao động; Việc quy định quyền được nghỉ hưu sớm hơn 05 năm chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, cần phải được cân nhắc để điều chỉnh nghỉ hưu sớm hơn 10 năm đối với một số công việc đặc biệt như làm việc khai thác than trong hầm lò, người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn, rủi ro nghề nghiệp …; Việc quy định quyền được nghỉ hưu cao hơn không quá 05 năm so với tuổi nghỉ hưu chung cũng phải được hướng dẫn cụ thể hơn đối với một số ngành, lĩnh vực đang kéo dài tuổi nghỉ hưu cao hơn cả mức 05 năm (giáo dục, y tế…).
Cơ quan thẩm tra cũng nêu rõ: Đến nay, Chính phủ vẫn chưa bổ sung tài liệu làm rõ những kiến nghị của Ủy ban đã nêu trong Báo cáo thẩm tra số 2032/BC-UBVĐXH14 như “bổ sung dự thảo Danh mục các công việc, ngành nghề, vị trí việc làm thuộc trường hợp đặc biệt mà người lao động có thể được nghỉ hưu ở độ tuổi thấp hơn hoặc cao hơn 05 năm theo quy định”, chưa đưa ra được cơ sở, bằng chứng khoa học để quy định về khoảng cách tuổi nghỉ hưu (02 tuổi) giữa lao động nam và lao động nữ. Đáng chú ý, theo Chủ nhiệm Nguyễn Thúy Anh: “Quá trình lấy ý kiến cũng cho thấy, dư luận người lao động (nhất là người lao động trực tiếp sản xuất, đứng máy dây chuyền… ở doanh nghiệp) chưa có sự đồng thuận cao về quy định tăng tuổi nghỉ hưu, đòi hỏi cần có thời gian để tiếp tục tham vấn, lấy ý kiến rộng rãi các đối tượng khác nhau và quan tâm hơn công tác truyền thông trong thời gian tới”.
Nhất trí với báo cáo của Ủy ban về các vấn đề xã hội, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải lưu ý phải quan tâm hơn tới công tác tuyên truyền trong thời gian tới. “Khi đi tiếp xúc cử tri, tôi thấy nhiều người dân hiểu chưa đúng về việc tăng tuổi nghỉ hưu. Do đó, chúng ta phải tuyên truyền để người dân biết là nếu tăng tuổi nghỉ hưu thì theo lộ trình phải đến năm 2028 mới có lao động nam đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 62 và năm 2035 mới có lao động nữ đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 60”.
Bà cũng đề nghị cần đưa ra bằng chứng khoa học để quy định về khoảng cách tuổi nghỉ hưu (02 tuổi) giữa lao động nam và lao động nữ.
Tán thành với việc tăng tuổi nghỉ hưu, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu khẳng định, đây vấn đề lớn, đã được đặt ra nhiều lần. Tuổi nghỉ hưu của người lao động nói chung phải có tầm nhìn dài hạn, phải tính đến yếu tố già hóa dân số, cân bằng giới, thị trường lao động, vấn đề thất nghiệp... “Đảng đã đặt ra trong Nghị quyết, giờ chúng ta thể chế nào cho phù hợp” – ông nói.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân lưu ý, việc xác định tuổi nghỉ hưu cần tính đến yếu tố sức khỏe của người lao động, khả năng làm việc của người lao động, yếu tố kinh tế lao động như: thị trường lao động, giải quyết việc làm, an sinh xã hội. Chủ tịch Quốc hội cũng khẳng định: “Tuổi nghỉ hưu là vấn đề lớn, phải thực hiện đúng tinh thần của Trung ương đã cho chủ trương nghiên cứu để tăng tuổi nghỉ hưu. Việc sửa đổi tại Bộ luật này không phải để cho những người đương chức kéo dài thời gian ở lại”.
Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng cần thiết phải đánh giá tác động; đồng thời đề nghị Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH, các cơ quan có liên quan tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH để đánh giá, giải trình thêm tại kỳ họp tới.
Tăng giờ làm thêm là đi ngược sự tiến bộ của xã hội?
Việc mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa cũng là một trong những vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các thành viên UBTVQH.
Báo cáo về vấn đề này, Chủ nhiệm Nguyễn Thúy Anh cho biết, hiện nay còn có ý kiến khác nhau từ phía Công đoàn, người lao động, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp.
Thảo luận tại kỳ họp thứ 7, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành việc mở rộng khung thỏa thuận về giờ làm thêm tối đa lên 400 giờ/năm (tăng 100 giờ so với quy định hiện hành) nhưng chỉ áp dụng đối với một số ngành, nghề nhất định, trả tiền lương lũy tiến cho thời gian làm thêm giờ và khống chế số giờ làm thêm tối đa theo tháng. Một số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội và cho rằng nên cân nhắc kỹ vấn đề này để phù hợp với điều kiện làm việc, sức khỏe và thời giờ làm việc của người lao động Việt Nam.
Nhấn mạnh cần cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này, Chủ nhiệm Nguyễn Thúy Anh phân tích, mặc dù, trên thực tế, nhu cầu làm thêm giờ là có thật; từ phía người lao động bản chất là do tiền lương và thu nhập chưa bảo đảm trang trải cuộc sống; từ phía người sử dụng lao động là do nhu cầu sản xuất, kinh doanh và tùy theo từng thời điểm. Bộ luật hiện hành đã quy định nguyên tắc thỏa thuận khi làm thêm giờ, nhưng việc thực hiện rất khó khăn, hạn chế, tình trạng vi phạm về thời giờ làm thêm khá phổ biến. Mặt khác, việc kéo dài thời giờ làm thêm là đi ngược lại với xu hướng tiến bộ, khi trình độ công nghệ ngày càng phát triển, trình độ quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn, tay nghề người lao động được nâng lên thì năng suất lao động, giá trị sản phẩm tăng lên, thời giờ làm việc sẽ giảm xuống để bảo đảm sức khỏe và cải thiện đời sống của người lao động.
Đáng quan tâm hơn, cơ quan thẩm tra cho rằng, việc mở rộng khung thời gian làm thêm giờ tối đa trong trường hợp đặc biệt là 400 giờ/năm gấp 02 lần tổng số giờ làm thêm tối đa trong trường hợp bình thường luật định (200 giờ/năm) và bằng 50 ngày làm việc bình thường (8 giờ/ngày) là vấn đề Cơ quan soạn thảo cần có giải trình thấu đáo cùng với mối quan hệ với thời giờ làm việc thực tế, tiền lương thực tế, hiệu quả, năng suất lao động và giải quyết việc làm...
Bên cạnh đó, việc tăng thời giờ làm thêm trong điều kiện công tác thanh tra, kiểm tra, chế tài xử lý vi phạm còn hạn chế sẽ có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp lợi dụng thời giờ làm thêm khai thác sức lao động, dẫn đến hậu quả người lao động sẽ cạn kiệt sức lao động sớm hơn so với tuổi lao động.
Ủy ban đề nghị, vấn đề này cần phải được Cơ quan soạn thảo tiếp tục làm rõ thêm và việc quy định thời gian phải làm thêm giờ phải theo hướng đảm bảo chặt chẽ, giới hạn trong một số trường hợp đối với một số ngành, nghề, công việc nhất định và phải bảo đảm các nguyên tắc: Phải có sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động; Áp dụng tiền lương lũy tiến cho thời gian làm thêm giờ; Bổ sung quy định khống chế giờ làm thêm tối đa theo tháng và phải có cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát đảm bảo sự tuân thủ quy định về thời gian làm thêm giờ, tránh để xảy ra tình trạng phổ biến vi phạm pháp luật về làm thêm giờ như hiện nay.
Cho ý kiến tại phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Đỗ Bá Tỵ nhấn mạnh, sửa đổi Bộ luật Lao động là vấn đề lớn, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến người lao động. Do đó, nếu chúng ta làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến tâm tư nguyện vọng người lao động, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội và dễ bị kẻ xấu lợi dụng.
Ông cho rằng, nhiều vấn đề lớn trong dự luật chưa được làm rõ, nên cần tham vấn, xin ý kiến nhân dân, đặc biệt là về vấn đề tăng giờ làm thêm. Bởi việc kéo dài thời giờ làm thêm là đi ngược lại với xu hướng tiến bộ. Trong bối cảnh hiện nay tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao, trình độ công nghệ ngày càng phát triển, tay nghề lao động nâng lên, trình độ quản lý tốt hơn thì không có lý gì phải tăng giờ làm thêm.
Theo ông, việc tăng giờ làm là cần thiết nhưng không phải là vấn đề phổ biến. “Tăng giờ làm thêm chỉ nên để phục vụ trong đợt thi đua đột xuất, trong thời điểm nhất định, còn nếu “ke” tăng giờ làm ngay từ đầu thì không được” – Phó Chủ tịch Đỗ Bá Tỵ phát biểu.
Cũng băn khoăn về việc mở rộng khung thời giờ làm thêm tối đa, Trưởng Ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải đề nghị làm rõ lý do tại sao phải mở rộng lên gấp đôi? Bà cho rằng, nhu cầu làm thêm giờ là nhu cầu từ hai phía nhưng nếu phân tích đánh giá kĩ ra thì nhu cầu này làm lợi cho khối giới chủ nhiều hơn.
Trái với các quan điểm trên, Chủ tịch phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc ủng hộ đề xuất mở rộng khung thời gian làm thêm giờ tối đa trong trường hợp đặc biệt là 400 giờ/năm. Theo ông, điều này rất quan trọng với những ngành sử dụng nhiều lao động, những ngành hướng về xuất khẩu. Thế nhưng, về tiền lương làm thêm giờ thì ông đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành, với lí do “tăng tiền lương lũy tiến theo giờ thì tăng chi phí cho doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể gánh được”.
Về vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh: “Xã hội tiến bộ, phát triển văn minh nhưng chúng ta lại ngồi đây tính tăng thời gian làm thêm cho người lao động nên tôi đề nghị cân nhắc thấu đáo vấn đề này. Quan điểm của tôi là không đồng ý”./.
Theo Dangcongsan.vn