Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.217,6 km2, có 09 đơn vị hành chính cấp huyện với 140 xã, phường, thị trấn, gồm 990 thôn, tổ dân phố. Dân số tỉnh Khánh Hòa có hơn 1,23 triệu người, với 33 dân tộc đang sinh sống trên địa bàn; có 17.706 hộ/71.581 nhân khẩu đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), chiếm khoảng 5,8% dân số toàn tỉnh, phần đông là dân tộc Raglay (chiếm 75,86% số đồng bào DTTS), T’rin (7,78% số đồng bào DTTS), Êđê (5,44% số đồng bào DTTS), Hoa (4,14% số đồng bào DTTS), Tày (2,69% số đồng bào DTTS), Nùng (1,62% số đồng bào DTTS) và các DTTS khác chiếm 2,46%. Đồng bào DTTS sống tập trung tại hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và một số xã ở huyện Diên Khánh, huyện Cam Lâm, thành phố Cam Ranh và thị xã Ninh Hòa. Theo kết quả rà soát hộ nghèo năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 4,95%, cận nghèo là 6,78%; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS còn cao, chiếm 53,72%.
Khái quát về tình hình kinh tế, đời sống, văn hóa, xã hội, an ninh chính trị vùng đồng bào DTTS và miền núi
Khu vực miền núi tỉnh Khánh Hòa có tổng diện tích tự nhiên là 290.500 ha, chiếm 63,5% diện tích toàn tỉnh; trong đó đất lâm nghiệp chiếm 78%, đất nông nghiệp chiếm 6%. Theo Quyết định số 582/QĐ/TTg, ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh Khánh Hòa có 51 xã, thị trấn (6 xã, thị trấn thuộc khu vực I, chiếm 11,76%, 29 xã, thị trấn thuộc khu vực II, chiếm 56,86%, 16 xã thuộc khu vực III, chiếm 31,37%) và 65/205 thôn đặc biệt khó khăn, chiếm 31,7%. Toàn tỉnh có 02 huyện nghèo là Khánh Vĩnh và Khánh Sơn (theo Quyết định số 275/QĐ-TTg, ngày 07/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các huyện nghèo và huyện thoát nghèo giai đoạn 2018 - 2020).
Những năm qua, do được tập trung đầu tư nên kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi của tỉnh có sự khởi sắc. Hiện nay, 100% xã có tuyến đường giao thông nối đến trung tâm xã (có 53/94 xã có đường giao thông được cứng hóa theo tiêu chí nông thôn mới); có 98,9% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, tỷ lệ phủ sóng phát thanh, truyền hình 95%; trên 90% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% số hộ nghèo là người DTTS được xây dựng nhà ở; tại các xã đều có trạm y tế, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng và bưu điện văn hóa xã.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng DTTS và miền núi của tỉnh được giữ vững. Các tranh chấp, khiếu nại và mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư được giải quyết kịp thời, không để xảy ra điểm nóng. Công tác vận động quần chúng được tăng cường; nhận thức của nhân dân vùng DTTS và miền núi ngày càng được nâng cao; tư tưởng ổn định; chấp hành tốt đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi
Trong những năm qua, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ triển khai, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, quy định của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc; phân bổ nguồn lực và hướng dẫn các địa phương thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách dân tộc của Trung ương; đồng thời tổ chức thực hiện tốt các chương trình, chính sách riêng của tỉnh nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng đồng bộ; triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội và hỗ trợ đồng bào phát triển kinh tế hộ gia đình; phổ biến, tuyên truyền và nâng cao nhận thức pháp luật cho đồng bào. Việc triển khai và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc đã giúp bộ mặt nông thôn miền núi của tỉnh có sự khởi sắc đáng kể; góp phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Cụ thể:
Thực hiện các chính sách cấp phát, không thu tiền, trợ giá, trợ cước để bán hàng và mua sản phẩm sản xuất ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống đồng bào DTTS miền núi, hải đảo tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2006 - 2010; hỗ trợ trồng vườn rừng và chăn nuôi đối với hộ đồng bào DTTS miền núi giai đoạn 2007 - 2010; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020; triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, đời sống khó khăn cư trú lâu năm trên địa bàn miền núi giai đoạn 2007 - 2010.

Ảnh minh họa, đồng chí Trần Mạnh Dũng, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy làm việc định kỳ với Đảng ủy Thị trấn Tô Hạp, huyện Khánh Sơn
Tập trung nguồn lực triển khai thực hiện Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS, đời sống khó khăn và Quyết định số 1592/QĐ-TTg, ngày 12/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt đến năm 2010 cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn. HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 12/2007/NQ-HĐND, ngày 02/02/2007 về chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, đời sống khó khăn cư trú lâu năm trên địa bàn miền núi.
Thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg, ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức hỗ trợ cao hơn so với quy định; tạo điều kiện cho nhiều hộ đồng bào DTTS nghèo ở khu vực I được thụ hưởng chính sách, góp phần giảm bớt khó khăn trong sản xuất và đời sống của người dân thuộc hộ nghèo trong tỉnh.
Thực hiện Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg, ngày 04/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015; HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 12/2011/NQ-HĐND, ngày 21/7/2011 về chính sách cho vay vốn phát triển đối với hộ DTTS nghèo ở vùng khó khăn giai đoạn 2011 - 2015.
Xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015 - 2025 theo Quyết định số 498/QĐ-TTg, ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ (từ năm 2016 - 2018, đã tổ chức 31 lớp tuyên truyền, 03 cuộc thi sân khấu hóa về tuyên truyền “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống” tại các địa phương miền núi); Đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2021”.
Trên cơ sở chủ trương của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 06/2016/NQ-HĐND, ngày 11/8/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2016 - 2020, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2907/QĐ-UBND, ngày 28/9/2016 phân công các cơ quan, đơn vị hỗ trợ, giúp đỡ hộ gia đình khó khăn tại các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, gồm 36 nhóm với 190 cơ quan, đơn vị hỗ trợ, giúp đỡ 36 xã miền núi, với nhiều hình thức hỗ trợ phát triển sản xuất như hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, kỹ năng, phương pháp, ứng dụng các mô hình phát triển sản xuất có hiệu quả để nâng cao thu nhập cho đồng bào DTTS. Qua đó, góp nâng cao ý thức cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động về tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào DTTS và xã miền núi được phân công giúp đỡ theo kế hoạch đề ra.
Nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội ở vùng đồng bào DTTS
Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các DTTS và miền núi trong tỉnh được cải thiện và từng bước nâng cao. Giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe Nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Tình trạng du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy cơ bản được khắc phục. Một số đồng hộ bào DTTS đã sử dụng giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất góp phần nâng cao đời sống kinh tế.

Ảnh minh họa. Lãnh đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy tham gia gia đình người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Vĩnh
Tỉnh đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân vùng đồng bào DTTS; đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng; cung ứng giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện và tập quán sản xuất của đồng bào, từng bước hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa trên địa bàn vùng DTTS và miền núi (sầu riêng, mít nghệ ở Khánh Sơn, bưởi da xanh ở Khánh Vĩnh, dê ở Diên Khánh và Cam Ranh; mía ở Ninh Hòa...). Đến nay, đồng bào đã biết áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập cho gia đình, nhiều hộ đã cải tạo vườn tạp, nương rẫy, đồi núi trọc, đầu tư sản xuất đạt hiệu quả cao. Thu nhập bình quân đầu người khu vực đồng bào DTTS ước đạt 11,4 triệu đồng/người/năm.
Về lao động và giải quyết việc làm người DTTS: Tỷ lệ lao động tham gia học nghề nông nghiệp có việc làm đạt 79,9% và số lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế qua đào tạo chiếm 41,04%; tỷ lệ lao động được qua đào tạo từ sơ cấp trở lên đạt 36,15%, trong đó trung cấp và cao đẳng chiếm 27,36%. Các lớp đào tạo nghề cho đồng bào DTTS được mở thường xuyên với các nghề chủ yếu như đan lát, làm nấm, kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt... Số lượng học viên người DTTS học nghề từ năm 2003 đến nay là hơn 6.000 người.
Về giáo dục - đào tạo: Tiếp tục đầu tư xây dựng mạng lưới trường, lớp đáp ứng nhu cầu học tập ở vùng DTTS và miền núi. Triển khai thực hiện Đề án quy hoạch phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2025; Đề án tăng cường phòng học tổ chức dạy học 2 buổi/ngày cho cấp tiểu học giai đoạn 2 cho huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh; Đề án kiên cố hóa trường, lớp học, cấp kinh phí tổ chức các lớp tăng cường tiếng Việt cho trẻ 6 tuổi người DTTS trước khi vào lớp 1. Đến nay, các xã vùng DTTS và miền núi trong tỉnh đều có trường mẫu giáo, trường tiểu học, trung học cơ sở đáp ứng nhu cầu trẻ em đến lớp ở từng cấp học. Công tác phổ cập giáo dục các cấp được duy trì, củng cố và phát triển; 100% xã đạt chuẩn Quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học; tỷ lệ trẻ 6 tuổi ra lớp học đạt trên 99%, trẻ 10 tuổi trở lên biết chữ toàn tỉnh đạt 96,67%; toàn tỉnh có 04 Trường Dân tộc nội trú; tỷ lệ học sinh bỏ học là 0,39%; tỷ lệ tốt nghiệp các cấp đạt cao. Từ năm 2011 đến nay, có 31 học sinh DTTS đi học chế độ cử tuyển theo Nghị định số 134/2006/NĐ-CP của Chính phủ và đã bố trí việc làm cho 06 học sinh cử tuyển sau khi tốt nghiệp (năm 2012 và năm 2014).
Về văn hóa - thể thao: 100% xã đều có nhà sinh hoạt cộng đồng phục vụ nhu cầu giao lưu, sinh hoạt cho người dân. Các hoạt động văn hóa duy trì như "Ngày văn hóa các dân tộc - ngày 19/4 hàng năm", phong trào thi đua xây dựng "làng văn hóa, gia đình văn hóa", Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"... được diễn ra thường xuyên, góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, đẩy lùi các phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan trên địa bàn miền núi. Hiện nay, đã sưu tầm hơn 300 hiện vật gốc có giá trị tiêu biểu, điển hình về đời sống văn hóa các DTTS. Bản sắc văn hóa các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy (trang bị bộ mã la cho các đội văn nghệ cơ sở, dạy hát sử thi), đặc biệt Lễ bỏ mả của người dân tộc Raglai được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản phi vật thể Quốc gia (năm 2012).
Về y tế: Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân vùng DTTS và miền núi những năm qua được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt. Chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe khám, chữa bệnh được nâng cao. Hiện nay, 100% xã miền núi có trạm y tế và nhân viên y tế, tỷ lệ xã có y tế xã đạt chuẩn quốc gia là 98%; tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 66,4%, trong đó 100% đồng bào DTTS được cấp thẻ BHYT, khám chữa bệnh miễn phí và hỗ trợ tiền ăn cho bệnh nhân điều trị nội trú.
Về môi trường: Tỷ lệ các cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn về môi trường đạt 70%; tỷ lệ xã có nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch đạt 81,1%. Môi trường sống tại các khu dân cư ngày càng được cải thiện, các hộ chăn nuôi đã có ý thức xây dựng chuồng trại, nhiều hộ đã xây dựng nhà vệ sinh.
Công tác thông tin, tuyên truyền: Các ngành, đoàn thể, địa phương đã tích cực phối hợp tổ chức 266 lớp tập huấn, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác dân tộc cho đồng DTTS và cán bộ cơ sở với hơn 13.300 lượt người.

Ảnh minh họa. Lãnh đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy thăm, tặng quà Tết cho đồng bào
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc, trong thời gian tới cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp phải xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài và là vấn đề cấp bách hiện nay; tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và Chương trình hành động số 15-CTr/TU của Tỉnh ủy về Công tác dân tộc; Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Kế hoạch số 10-KH/TU, ngày 07/3/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào DTTS).
Hai là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về dân tộc, huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi; triển khai, thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống người dân vùng DTTS và miền núi; giải quyết kịp thời những vấn đề bất cập nảy sinh, trong đó có tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt và vấn đề tranh chấp đất đai giữa các hộ đồng bào DTTS với doanh nghiệp.
Ba là, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận và các đoàn thể đối với việc thực hiện các chính sách dân tộc, các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng DTTS và miền núi; nắm chắc tình hình tư tưởng của đồng bào các DTTS và đề nghị cấp ủy, chính quyền các cấp giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, nổi cộm phát sinh. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân thông qua việc thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để Nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Bốn là, chú trọng phát hiện, xây dựng và tổ chức bồi dưỡng đối với lực lượng cốt cán, già làng tiêu biểu, người có uy tín để làm công tác vận động quần chúng; tăng cường vận động, tranh thủ người có uy tín trong đồng bào DTTS tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội ở vùng DTTS và miền núi; vận động người dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu, thực hiện đời sống văn hóa mới; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Năm là, tiếp tục xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng DTTS và miền núi; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người DTTS; đẩy mạnh phát triển đảng viên là đồng bào DTTS; tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra những “điểm nóng” ở vùng đồng bào DTTS.
Thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra việc tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, nhất là ở cấp cơ sở. Khuyến khích người dân, các tổ chức đoàn thể tham gia kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án ở vùng đồng bào DTTS.
Thanh Trúc- Ban Dân vận Tỉnh ủy