CHƯƠNG XI
CÁCH MẠNG CHUYỂN SANG THẾ TIẾN CÔNG, PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA MỸ (1960 -1965)
ĐẤU TRANH GIÀNH QUYỀN LÀM CHỦ, GIẢI PHÓNG CÁC HUYỆN MIỀN NÚI, XÂY DỰNG THÀNH CĂN CỨ HOÀN CHỈNH, VỮNG CHẮC TRONG SUỐT CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Từ khi được tiếp thu Nghị quyết 15, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa như được tiếp thêm nguồn sinh lực mới, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang ở các huyện miền núi Khánh Hòa1 phát triển.
Cuối năm 1959 đầu năm 1960, phần lớn các xã, huyện miền núi đều có đội du kích, trang bị vũ khí thô sơ. Ngày 20-12-1960, thành lập trung đội bộ đội địa phương huyện Khánh Sơn. Cả vùng căn cứ có đại đội 548 là đội vũ trang đầu tiên của tỉnh trong thời kỳ chống Mỹ, hầu hết các chiến sĩ là người dân tộc. Liên tỉnh 3 đóng tại Xóm Cỏ (Khánh Sơn) có tiểu đoàn quân chủ lực 120.
Có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân vùng giữa và vùng cao truy bắt bọn điệp ngầm, xử trị những tên tề gian ác, phá bộ máy kèm kẹp của địch, dân bị dồn bung về làng cũ.
Trong tình hình đó, địch phản ứng mạnh ra sức dồn dân các buôn làng, xây dựng một số khu tập trung ở giáp ranh nhằm làm hàng rào án ngữ, ngăn cản các lực lượng cách mạng từ căn cứ miền núi phát triển xuống đồng bằng. Ở phía Khánh Sơn có khu tập trung Tà Dục (bót Cây Dầu), Suối Dầu, Suối Hai, Láng Te Te, Tà Lương, Bàu Hùng. Ở phía Vĩnh Khánh có khu tập trung Bố Lang, Thác Trại, Gia Lê, Đá Bàn.
Để giải phóng trọn vẹn miền núi Khánh Hòa, vấn đề quan trọng là phá sạch các khu tập trung dân ở vùng giáp ranh miền núi và đồng bằng.
Huyện Bắc Ái của tỉnh Ninh Thuận có ranh giới chung với phía Nam huyện Khánh Sơn, nhân dân ở đây đã vùng dậy phá khu tập trung từ năm 1958, mở ra khả năng cùng với các huyện miền núi Khánh Hòa hình thành vùng căn cứ hoàn chỉnh. Tháng 3-1960, Liên Tỉnh ủy 3 chủ trương thành lập khu Ái-Vĩnh-Sơn. Khu căn cứ này đã phát huy tác dụng làm chỗ dựa vững chắc cho sự chỉ đạo của Liên tỉnh, bảo đảm hành làng chiến lược Bắc-Nam, làm bàn đạp vững chắc cho phong trào đồng bằng. Khu Ái-Vĩnh-Sơn có một Ban cán sự gồm 3 đồng chí: đồng chí Lê Tụng, đồng chí Mai Xuân Thưởng, đồng chí Phạm Thành Huyên (Ba Huệ) trực thuộc Liên Tỉnh ủy 3 do đồng chí Lê Tụng làm Bí thư.
Có ánh sáng của Nghị quyết 15, có lực lượng vũ trang, tuy chưa nhiều; với lòng căm phẫn của quần chúng bấy lâu bị nén xuống, các nhân tố đó kết hợp lại đã làm bùng lên một khí thế đấu tranh mới hoàn toàn khác trước. Bạo lực cách mạng được phát động chống lại bạo lực phản cách mạng. Lúc đầu lãnh đạo chủ trương phát động nhân dân đấu tranh, nhưng chỉ sử dụng vũ khí thô sơ để giữ thế hợp pháp cho quần chúng. Tháng 9-1959, có trên 200 người tham gia cuộc mít tinh tổ chức tại suối Chum Bró thôn Tô Hạp (Khánh Sơn) biểu thị khí thế mới của cách mạng. Đồng bào vạch mặt chỉ tên bọn ác ôn, tay sai Mỹ-Diệm như Tổng Thanh, Mang Thăng buộc chúng phải cúi đầu nhận tội. Số người lưng chừng tỏ thái độ ngả hẳn về phía cách mạng. Nhân dân Tô Hạp, Ba Cụm đứng dậy xóa bỏ sạch bộ máy tề ngụy, xây dựng chính quyền cách mạng, phát động toàn dân làm bố phòng bằng chông, cung, tên ná, tỏ rõ thái độ chống Mỹ-Diệm đến cùng. Nhiều cuộc càn của địch lên vùng căn cứ trong những tháng đầu năm 1960 đều bị thất bại do hầm chông, bẫy đá, tên thuốc độc của du kích. Điển hình là trận chống càn của du kích Ba Cụm do đồng chí Máu Năm (A Cho) chỉ huy, dùng vũ khí thô sơ diệt tên thiếu úy Nguyễn Châu, trung đội trưởng bảo an và làm bị thương nhiều tên, buộc chúng phải rút chạy. Sau cuộc càn, nhiều tên lính hết sức hãi hùng vì tên ná thuốc độc.
Tháng 1 năm 1960, một tiểu đội vũ trang của tỉnh phối hợp với chi bộ đảng Tà Dục do đồng chí Tro Bốn làm bí thư đã hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá khu tập trung Cây Dầu, diệt ban hội tề ác ôn, đốt trụ sở, nhà cửa, gần 2000 đồng bào bung về buôn cũ. Cùng đêm, đồng chí Cau Xia, một đảng viên hợp pháp đứng lên hô hào quần chúng phá khu tập trung Suối Hai, Láng Te Te, Dốc Quýt, 200 đồng bào dân tộc kéo thẳng về Ba Cụm, Tô Hạp xây dựng căn cứ đánh địch.
Vào đầu tháng 3 năm 1960, các lực lượng của tỉnh phối hợp với lực lượng Liên tỉnh đánh tiểu đội lính bảo an, bảo vệ phu làm đường tại Suối Rua, thu 4 súng, phá hủy 2 xe ủi, và đến tháng 8-1960 ta đánh trận Suối Rua lần hai diệt gần một đại đội bảo an, phá hủy một số xe ủi, xe lu, phương tiện làm đường và thu vũ khí, buộc địch phải bỏ dở kế hoạch mở con đường từ Suối Rua lên vùng Tà Lú, Ma Ty nhằm cắt đôi vùng căn cứ, gây trở ngại cho hành lang chiến lược Bắc-Nam. Tiếp đó, lực lượng vũ trang của Liên tỉnh diệt luôn các đồn Tà Lú, Ma Ty, gây tiếng vang lớn khắp vùng căn cứ miền núi Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Từ ngày 10 đến ngày 15-8-1960, địch huy động một đại đội bảo an phối hợp với dân vệ, công an Cam Lâm hành quân lên vùng Tô Hạp, bắt được ông Cau Điềm, một người có uy tín lớn đối với dân chúng ở vùng này, nhưng trên đường về chúng bị tiểu đội du kích người dân tộc ở Ba Cụm chặn đánh. Ông Cau Điềm là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh huyện Khánh Sơn, đã có lần bị địch bắt giam và vượt ngục hồi tháng 7 năm 1957. Lần này bắt được Cau Điềm chúng vừa dụ dỗ, vừa tra tấn dã man. Để giữ vững khí tiết của người đảng viên và giữ bí mật cho cơ sở, Cau Điềm đã tự thắt cổ chết trong lao Đá Bạc, để lại nỗi xót thương và làm tăng làn sóng căm thù sâu sắc trong đồng bào dân tộc.
Tháng 9-1960, địch lại mở cuộc càn lớn với quy mô tiểu đoàn biệt động vào căn cứ, lùng sục sâu vào nội địa vùng giáp ranh 3 tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Lâm Đồng. Nhưng chúng đã vấp phải lưới bố phòng dày đặc của du kích và đồng bào bằng hầm chông, cung tên, bẫy đá. Một lính địch bị trúng tên tẩm thuốc độc chết, 6 tên bị sập hầm chông và nhiều tên khác bị thương vì bẫy đá.
Ngày 15-10-1960, một đại đội bảo an do tên quận trưởng chỉ huy hành quân vào vùng Tô Hạp. Chúng lại bị hầm chông, bẫy đá, tên thuốc độc của đồng bào và du kích, thiệt hại khá nặng mà không bắt được ai. Chúng đốt phá trên 100 nóc nhà và trên 5 tấn lúa, bắp của đồng bào.
Có lực lượng mới, có một số kinh nghiệm bước đầu phá dồn dân và nắm được tinh thần của quần chúng, với sự hỗ trợ của Liên tỉnh, Tỉnh ủy chủ trương tập trung sức, sử dụng lực lượng của tỉnh và một phần của Liên tỉnh phá khu tập trung Gia Lê (Vĩnh Khánh). Đây là khu tập trung dân kiểu mẫu, quy mô lớn của địch có trên 4.000 đồng bào các dân tộc Raglai, K'Ho, T'ring, Êđê.
Kế hoạch phá khu tập trung Gia Lê được chuẩn bị chu đáo. Cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang được học tập chính sách dân tộc của Đảng. Bộ phận cốt cán, các đoàn viên thanh niên ở Tà Giang, Bưng Dưng, Giang Biên làm nhiệm vụ dẫn đường, truyền tin. Nhân dân vùng căn cứ Khánh Sơn, Khánh Vĩnh sẵn sàng hưởng ứng tham gia. Sơ đồ khu tập trung Gia Lê được cơ sở người dân tộc báo cáo tỷ mỉ, bao gồm hệ thống trụ sở tề ngụy, đường sá, bót gác, vũ khí.
Cuộc đấu tranh lớn này diễn ra vào tháng 9 năm 1960. Đồng bào vùng lên phá hết các chòi canh, hàng rào, nhà trụ sở, phá banh toàn bộ khu dồn. Bọn tề ngụy và lực lượng dân vệ nộp súng đầu hàng; ta mở phiên tòa công khai xử tội những tên ngoan cố chống lại cách mạng. Tên Là Gai bị xử bắn, các tên tòng phạm được hưởng lượng khoan hồng. Đồng bào được giải phóng, tích cực tăng gia sản xuất, phát triển nhân dân du kích chiến tranh, làm hầm chông, cạm bẫy chuẩn bị chống càn. Vùng làm chủ được mở rộng đến giáp các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận.
Đêm 17-10-1960, đội vũ trang tuyên truyền đột nhập khu tập trung dân tại Ba Cua (Suối Dầu), Suối Thượng (Lỗ Mây), tuyên truyền giải thích chính sách Mặt trận Dân tộc giải phóng, phá trụ sở, đốt tài liệu và thu con dấu của hội đồng tề xã. Tiếp đó ngày 28, 29 tháng 10, đột nhập các buôn Thác Trại, Đa Ca, Buôn Dung, Gia Lách, Sông Máu, Thác Hồm; đêm 19 tháng 11, võ trang tuyên truyền tại Bàu Hùng, Bàu Húc, rải truyền đơn vào trại định cư đồng bào Nùng ở xã Cam Thượng; đêm 24 tháng 11, 2 trung đội quân giải phóng cải trang làm lính bảo an, có đồng bào dẫn đường vào khu tập trung Hóc Gia, Bàu Hùng cách quận lỵ Cam Ranh 3 km, lùng bắt nhân viên hội đồng xã, thu 1 tiểu liên, 4 súng trường, diệt tên công an gian ác Mang Tám. Hai đại đội lính cộng hòa và bảo an từ Nha Trang lên tiếp cứu, bị lực lượng vũ trang ta phục kích diệt 1 chuẩn úy, 1 hạ sĩ và 2 tên bị thương.
Đến cuối năm 1960, ta làm chủ trọn vẹn các huyện miền núi Khánh Hòa, gồm trên 15 ngàn dân. Nhân dân các dân tộc Raglai, Êđê, T'ring đã trải qua nhiều năm bị địch o ép nhưng vẫn một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ nay đứng lên làm chủ núi rừng. Bọn địch đã phải thú nhận: "Hiện nay Việt cộng đã nắm được tất cả thượng dân thuộc vùng Tây Khánh Hòa, nên hoạt động theo lệnh của Việt cộng, đang xây dựng làng Tô Hạp thành pháo đài chiến đấu chống chính quyền cộng hòa"2.
Trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được, Ban cán sự Ái-Vĩnh-Sơn quyết định triệu tập Đại hội dân tộc tự trị tỉnh. Đại hội họp tại Xóm Cỏ (Khánh Sơn) vào tháng 12 năm 1960. Trên 200 đại biểu xã, huyện trong căn cứ đã đến dự. Đại hội nêu cao nhiệm vụ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân dân, ra sức động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất lương thực, tăng cường công tác bố phòng, chống địch càn quét, quyết tâm xây dựng vùng căn cứ địa vững mạnh.
Đại hội đã bầu Uỷ ban nhân dân tự trị3 gồm 11 ủy viên, hầu hết là người dân tộc do bà Mấu Thị Lực người Bắc Ái làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch là các ông Tro Sang và Pi Năng Xà A. Đồng chí A Nhiên (tức Đặng Nhiên) là ủy viên thư ký kiêm chánh văn phòng ủy ban. Cơ quan Uỷ ban Dân tộc tự trị đóng tại Xóm Cỏ (Khánh Sơn).
Sau Đại hội Dân tộc tỉnh, các huyện lần lượt mở Đại hội. Đại hội Dân tộc tự trị huyện Khánh Sơn tổ chức tại Suối Giá (Ba Cụm) có trên 150 đại biểu, bầu Uỷ ban Dân tộc do ông Tro Sang làm chủ tịch. Uỷ ban Dân tộc huyện Vĩnh Khánh bầu ông Pi Năng Xà A làm chủ tịch...
Phong trào đang đà phát triển, tinh thần ủng hộ bộ đội rất cao, đồng bào ai cũng hồ hởi đóng góp để nuôi quân; thanh niên nô nức gia nhập lực lượng vũ trang và du kích. Việc bố phòng bằng các loại vũ khí thô sơ được đẩy mạnh. Bắt đầu xây dựng các tổ đổi công, vần công tương trợ nhau trong sản xuất. Phong trào học văn hóa sôi nổi. Hai đồng chí Mai Xuân Thưởng và Đặng Nhiên đã dùng chữ la-tinh phiên âm tiếng Raglai thành chữ viết, dạy thanh thiếu niên học. Sau này Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh ra báo "Tự trị" bằng chữ quốc ngữ và chữ Raglai để phổ biến tin tức và các chủ trương chính sách của Đảng đến cán bộ và đồng bào dân tộc.
Chỉ trong vòng 1 năm sau khi tiếp thu Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân miền núi Khánh Hòa phát triển, mở rộng và hoàn toàn làm chủ vào cuối năm 1960, từng bước xây dựng thành căn cứ địa hoàn chỉnh.
Từ đó, các huyện miền núi luôn luôn giữ vững là vùng giải phóng có đất, có dân, tạo thế mạnh có ý nghĩa chiến lược để mở phong trào đồng bằng, phát triển phong trào đô thị, đưa phong trào cách mạng của cả tỉnh tiến lên những bước mới và căn cứ địa miền núi của tỉnh Khánh Hòa được giữ vững và phát triển trong suốt những năm dài chống Mỹ, cho đến ngày giải phóng tỉnh, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
TỪNG BƯỚC HỒI PHỤC PHONG TRÀO Ở CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG VÀ THỊ XÃ NHA TRANG
Cho đến năm 1960, sự phân bố dân cư ở vùng đồng bằng Khánh Hòa có những thay đổi quan trọng, do có số đồng bào miền Bắc bị địch cưỡng ép di cư vào từ năm 1954, có đồng bào từ các tỉnh phía ngoài chuyển vùng đến làm ăn để tránh sự khống chế o ép của địch ở địa phương. Dân số tăng dần theo từng năm. Nhiều vùng trước kia hoang vắng, rừng rậm, cỏ lác thì nay dân cư đông đúc. Số dân tăng lên, nhưng cơ sở cách mạng không còn được bao nhiêu, do sự đánh phá ác liệt của địch trong những năm qua. Ở huyện Ninh Hòa, cơ sở được duy trì rải rác ở một số thôn như Lạc Ninh (xã Ninh Thọ), Lạc An (xã Ninh An), Phước Lâm, Vân Thạch (xã Ninh Xuân), Đại Cát, Xuân Hòa, Điềm Tịnh (xã Ninh Phụng). Ở Nha Trang và Vĩnh Xương còn một số cơ sở ở Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Thái, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Ngọc nhưng hoạt động yếu. Còn tại các huyện Cam Ranh, Diên Khánh, Vạn Ninh cơ sở bị địch phá vỡ, chưa xây dựng lại được và cũng chưa có cán bộ phụ trách. Phong trào các huyện đồng bằng nói chung chưa mở ra được.
Vào thời điểm này có một số diễn biến quan trọng, đó là cuộc đồng khởi của các lực lượng cách mạng ở tỉnh Bến Tre (Nam bộ) tháng 1 năm 1960; cuộc đảo chính không thành công của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi tháng 11 năm 1960; việc thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tháng 12 năm 1960, phong trào của tỉnh Phú Yên ở phía Bắc Khánh Hòa lên mạnh với cuộc đồng khởi Hòa Thịnh tháng 12 năm 1960. Ở trong tỉnh thì các huyện miền núi ta hoàn toàn làm chủ. Những sự kiện lịch sử quan trọng ấy, cùng với thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã làm xôn xao dư luận và tăng khí thế cách mạng. Đó là những điều kiện thuận lợi để đẩy phong trào đồng bằng phát triển.
Tỉnh ủy đã cử một số cán bộ về công tác ở các huyện, vừa lãnh đạo đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, xây dựng cơ sở quần chúng, phát động phong trào.
Tháng 2-1961, đồng chí Lê Tụng (Ba Sơn), tỉnh ủy viên đang làm Bí thư khu Ái-Vĩnh-Sơn thuộc Liên tỉnh 3 được Tỉnh ủy Khánh Hòa đề nghị rút về làm đội trưởng Đội vũ trang tuyên truyền để xây dựng cơ sở ở đồng bằng Diên Khánh. Đội gồm có các cán bộ quân sự, đặc công, quân báo, binh vận. Tháng 8-1960, Tỉnh ủy tăng cường lực lượng cán bộ cho Diên Khánh gồm 2 tổ vũ trang và bộ khung của đội 203 (đơn vị vũ trang của tỉnh trong chống Mỹ) do đồng chí Phạm Văn Nhu (Châu) và Trần Quang Lung chỉ huy.
Nhiệm vụ chính của đội vũ trang lúc này là đánh địch, gây thanh thế, tuyên truyền vận động móc nối cơ sở, khôi phục phong trào tạm thời bị đứt liên lạc từ năm 1958. Tuyên truyền giải thích đường lối cách mạng cho nhân dân, vạch rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, vận động và kêu gọi đồng bào đứng lên chống đi lính, dân vệ, phân hóa bọn ngụy quyền, chống bọn tay sai, ác ôn ngoan cố, đòi tự do làm ăn, hăng hái tham gia cách mạng, xây dựng lực lượng... Hướng hoạt động của đội là địa bàn Diên Lâm, Diên Lộc, Diên Sơn, Diên Điền sau đó mở rộng ra các xã khác.
Từ đầu năm 1960, Vĩnh Xương đã bắt đầu hình thành đội vũ trang làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền và diệt ác. Hoạt động lúc này tuy nhỏ nhưng diệt ác đúng đối tượng nên đã thúc đẩy, tạo đà cho quần chúng phấn khởi. Do đó, cơ sở đã phát triển nhanh hơn trước rất nhiều. Ở Nha Trang, ta đã treo cờ đỏ sao vàng ở núi Xưởng (Trại Thủy), rải truyền đơn trong thị xã.
Nhìn chung, trong năm 1960, qui mô hoạt động của ta ở Nha Trang - Vĩnh Xương còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đối với địa bàn rộng lớn và quan trọng. Tháng 3 năm 1961, do tính chất quan trọng của thị xã, cần phải có cấp ủy riêng để tăng cường sự lãnh đạo, tỉnh đã có quyết định tách ban cán sự liên huyện thành 2 ban cán sự và quyết định đồng chí Huỳnh Tưởng - tỉnh ủy viên làm Bí thư ban cán sự Nha Trang, đồng chí Nguyễn Nghiềm làm Bí thư huyện Vĩnh Xương.
Ở huyện Ninh Hòa, đồng chí Nguyễn Hữu Thiều làm Bí thư huyện ủy. Bộ máy của huyện từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên chỉ có 6 người. Cơ sở mới có ở 4 xã trong số 21 xã. Tháng 5-1960, đồng chí Lưu Văn Trọng về làm Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa thay cho đồng chí Nguyễn Hữu Thiều về công tác trên cơ quan Liên tỉnh 3. Tháng 7-1960, tỉnh tăng cường cho Ninh Hòa 3 cán bộ là các đồng chí Phạm Thiệu (tức Thành), đồng chí Lê Phóng, đồng chí Bùi Bán. Các đồng chí trong huyện ủy còn lại cùng với các đồng chí mới về phân công địa bàn xây dựng cơ sở, khôi phục phong trào.
Dựa vào bàn đạp Ninh Hòa, đồng chí Nguyễn Lương và 3 đồng chí sống hợp pháp được rút lên cùng với tổ vũ trang tiến hành vũ trang tuyên truyền móc nối xây dựng lại được cơ sở ở một số xã phía Nam huyện Vạn Ninh.
Đội vũ trang C100 của tỉnh lúc đầu do đồng chí Huỳnh Văn Chiều phụ trách, sau đó đồng chí Võ Danh chỉ huy hoạt động ở 2 huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh làm nhiệm vụ võ trang tuyên truyền, diệt ác, xây dựng cơ sở, tổ chức hậu cần tiếp tế cho căn cứ. Ở phía Nam tỉnh có các đội vũ trang công tác và một số đơn vị của Liên tỉnh 3.
Đêm 13 rạng ngày 14 tháng 10 năm 1960, một đội vũ trang công tác đột nhập trụ sở xã Diên Phú (Diên Khánh), đội vũ trang công tác khác đột nhập xã Cam Thượng (Cam Ranh). Đêm 25 tháng 10 năm 1960, ta vũ trang tuyên truyền ở vùng Bàu Hùng, Hòn Rồng. Tháng 1 năm 1961, các đội vũ trang tiếp tục hoạt động ở các huyện Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa phân phát nhiều truyền đơn, như "Tuyên ngôn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam", "Chính sách của Mặt trận đối với binh sĩ ngụy".
Tại Vạn Ninh, đội vũ trang tuyên truyền mở mít tinh tại Sở Thuốc Xuân Tự (Vạn Hưng) có hàng trăm công nhân tham dự, vận động được chủ sở người Pháp đóng góp tài chính.
Những hoạt động vũ trang tuyên truyền trên đây còn có tính chất lẻ tẻ, chưa có những trận đánh đau, nhưng cũng đã gây thanh thế làm cho bọn địch lo sợ và nhân dân hết sức phấn khởi.
Hội nghị Tỉnh ủy tháng 4 năm 1961, quyết định ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, tích cực đào tạo cán bộ cho phong trào đồng bằng.
Tháng 8 năm 1961, Khu 6 được thành lập thay cho Liên tỉnh 3. Khu ủy quyết định giải thể khu Ái-Vĩnh-Sơn, đưa các huyện Khánh Sơn, Vĩnh Sơn, Vĩnh Khánh trở về phạm vi hành chính tỉnh Khánh Hòa. Ban cán sự miền Tây sát nhập vào Tỉnh ủy Khánh Hòa thống nhất chỉ đạo toàn tỉnh.
Từ tháng 3-1960, dưới sự lãnh đạo của Liên tỉnh 3, miền núi Khánh Hòa nhập với Bắc Ái (Ninh Thuận) thành khu Ái-Vĩnh-Sơn, Ban cán sự gồm có 3 đồng chí: đồng chí Lê Tụng (bí thư), đồng chí Mai Xuân Thưởng, đồng chí Hà Huy An. Đồng bằng Khánh Hòa thành đơn vị riêng cũng thuộc Liên tỉnh 3, Tỉnh ủy có 4 đồng chí: đồng chí Lê Thanh Liêm (bí thư), Tô Văn Ơn (thường vụ), đồng chí Lưu Văn Trọng, đồng chí Huỳnh Tưởng. Sau khi sáp nhập, Tỉnh ủy Khánh Hòa gồm có: Tô Văn Ơn, Lưu Văn Trọng, Lê Tụng, Võ Cứ, Hà Huy An, Mai Xuân Thưởng, Huỳnh Tưởng. Đồng chí Tô Văn Ơn, Lưu Văn Trọng và Lê Tụng là ủy viên thường vụ. Đồng chí Tô Văn Ơn quyền bí thư cho đến tháng 8-1961 đồng chí Mai Dương về làm bí thư.
Vùng căn cứ miền núi được xây dựng từng bước vững chắc. Tháng 6-1961, quân và dân huyện Khánh Sơn đánh thắng cuộc càn quy mô tiểu đoàn của địch lên vùng căn cứ, diệt nhiều tên.
Tháng 8-1961, đồng chí Mai Dương đang làm Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên được Khu ủy điều về làm Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa thay đồng chí Lê Thanh Liêm đã qua đời sau một cơn ốm nặng. 15 thanh niên thoát ly của xã Hòa Hiệp (Tuy Hòa, Phú Yên), có trang bị vũ khí được điều động đến tăng cường cho huyện Vạn Ninh, huyện tiếp giáp phía Nam của tỉnh Phú Yên.
Tháng 8 năm 1961, Hội nghị Tỉnh ủy tại Xóm Cỏ (Khánh Sơn) đặt mạnh vấn đề tập trung sức phá kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược của địch, bám dân, xây dựng cơ sở, tích cực làm công tác binh vận, đưa phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang lên một bước mới. Miền núi khai thông luồng với đồng bằng, tích cực giải quyết muối, vải và nông cụ cho nhân dân. Đẩy mạnh cuộc vận động tăng gia sản xuất, coi việc trồng mì (sắn) là chiến lược, bắp, lúa là quan trọng. Đến hết năm 1961 huyện Vĩnh Sơn đã gieo trồng 2.015 giạ lúa, bắp và gần 1 triệu gốc mì. Huyện Khánh Vĩnh gieo trồng 1.105 giạ lúa, bắp và gần 1 triệu gốc mì. Nhờ tích cực sản xuất nên nhân dân có lương thực đủ ăn và đóng góp nuôi bộ đội, cán bộ.
Để có điều kiện chỉ đạo sâu sát kịp thời và phát triển phong trào ở cơ sở nhanh hơn nữa, tháng 10 năm 1961, Tỉnh ủy chủ trương tách huyện Ninh Hòa thành 2 huyện, lấy ranh giới là quốc lộ 214. Huyện Nam Ninh Hòa bao gồm các xã phía Nam quốc lộ 21 và thị trấn Ninh Hòa, Ban cán sự huyện có 3 đồng chí, do đồng chí Đặng Nhiên làm bí thư. Bắc Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh có chung một huyện ủy gồm 5 đồng chí được Tỉnh ủy chỉ định, do đồng chí Nguyễn Châu (Châu Râu) làm bí thư trực tiếp chỉ đạo Bắc Ninh Hòa, đồng chí Nguyễn Lương phó bí thư trực tiếp chỉ đạo Vạn Ninh.
Sau Hội nghị Tỉnh ủy, các hoạt động vũ trang ở đồng bằng đã khá sôi nổi. Ở phía Bắc tỉnh, lực lượng vũ trang đánh bót Mỹ Đồng (Vạn Ninh) diệt một tiểu đội địch. Tháng 5 năm 1961, đơn vị 100 cùng cán bộ huyện Ninh Hòa đột nhập xã Ninh Phước phá trụ sở xã, bắt 2 dân vệ, thu 2 súng trường, và mở mít tinh kêu gọi quần chúng đứng dậy đấu tranh chống địch. Tháng 8 năm 1961, tập kích trụ sở Hội đồng xã Ninh Phú (Ninh Hòa) diệt 4 tên, thu 2 súng. Tháng 9-1961, đơn vị C100 về vũ trang tuyên truyền ở Xuân Mỹ (Ninh Hòa), gặp tình huống bất ngờ, ta triển khai đội hình phục kích (đồng chí Võ Danh chỉ huy) bắn bị thương 1 tên, thu 2 súng. Tên bị thương ta băng bó, giải thích chính sách và thả tại trận.
Cuối năm 1961, để hỗ trợ các huyện đồng bằng phía Nam đẩy mạnh phong trào đi lên. Tiểu đoàn 120 của Quân khu 6 về hoạt động tại địa bàn Khánh Hòa, làm nhiệm vụ cơ động, hoạt động tập trung, phân tán linh hoạt, yêu cầu chính là diệt sinh lực địch, hỗ trợ phá ấp, phá kìm, mở vùng giải phóng đồng bằng, xây dựng thực lực cách mạng tại chỗ. Sau thời gian chuẩn bị, đêm 5-10-1961 tiểu đoàn trưởng sử dụng đại đội đặc công đánh đồn Cửu Lợi do 1 trung đội bảo an đóng giữ; sử dụng 4 đại đội bộ binh chận viện binh địch từ Ba Ngòi ra và từ Nha Trang vào (trên 2 hướng). Trận đánh đồn Cửu Lợi sau 25 phút chiến đấu, ta diệt gọn quân địch, thu vũ khí, rút an toàn, quân địch 2 đầu cứ điểm không hay biết gì nên không chi viện.
Lực lượng chận viện binh địch từ Nha Trang vào, lợi dụng mặt dốc đường số 1 chạy ngang qua đường xe lửa làm nơi chặn đầu của trận phục kích. Để giữ bí mật, bộ đội ta bắt người gác gi ở đây đưa về phía sau. Khoảng hơn 4 giờ ngày 6-10-1961, một đoàn tàu lửa từ Sài Gòn ra Nha Trang đến trận địa bộ đội ta phục kích, không thấy tín hiệu của người gác gi nên dừng lại hú còi inh ỏi, trời bắt đầu sáng, biết không có địch chi viện, và trận địa cũng đã lộ. Tiểu đoàn phó, chỉ huy trưởng trận phục kích cho bộ phận chận đầu làm nhiệm vụ võ trang tuyên truyền; bộ phận này vừa triển khai thì bị địch trên tàu bắn xối xả vào đội hình, thế là trận chiến bắt đầu, 1 loại hình chiến đấu mà bộ đội ta chưa dự kiến, chưa được huấn luyện. Đại đội trưởng đại đội 1 - người chỉ huy bộ phận chận đầu sử dụng trung liên kìm chế, phong tỏa khu hỏa lực của địch, và tổ chức từng tiểu đội, từng tổ chiến đấu, dùng tiểu liên, thủ pháo, lựu đạn, hiệp đồng đánh chiếm từng toa tàu khá phức tạp. Trận đánh kéo dài, trời mỗi lúc một sáng; chỉ huy trưởng trận đánh ra lệnh cho đại đội 3 chốt trên đường số 1 sẵn sàng chận viện binh địch; lực lượng còn lại dồn hết vào trận đánh. Trận đánh diễn ra hơn 1 giờ mới dứt điểm. Ta thu nhiều vũ khí, bắt sống 13 tù binh, diệt gọn 1 trung đội quân cảnh và 1 đại đội thám kích.
Hai trận đánh liên tiếp diễn ra đã làm rung chuyển bộ máy kìm kẹp ở vùng này, có tiếng vang lớn, tạo thuận lợi cho địa phương mở rộng và phát triển phong trào.
Cuối tháng 10-1961, tiểu đoàn 120 chuyển sang hoạt động ở địa bàn Diên Khánh. Đêm 25-10-1961, bộ đội địa phương và đội công tác vào ấp Đại Điền như thường lệ, nhưng sáng ngày 26-10-1961 - ngày chấp chính của Ngô Đình Diệm, anh em ở lại trong ấp đánh bọn dân vệ để kéo viện binh địch. Tiểu đoàn 120 tổ chức phục kích vận động ở đoạn cứ điểm Cẩm Sơn nhằm tiêu diệt viện binh địch, chủ yếu là bọn đi phục chặn đường ta trong ấp Đại Điền ra.
Sáng ngày 26-10-1961, tiếng súng đánh địch trong ấp Đại Điền vẫn tiếp tục nổ. Đến 10 giờ ngày 26-10-1961, một đoàn xe 7 chiếc trong đó có 3 xe bọc thép đi tiếp viện lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 120. Địa hình vùng Cẩm Sơn không thuận lợi cho 1 trận phục kích vận động; khi nổ súng bộ đội ta phải vận động qua vùng trống hơi dài; địch có thời gian co cụm lại và chiếm giữ cứ điểm Cẩm Sơn chống cự ta quyết liệt, trận đánh kéo dài 3 giờ liền mới dứt điểm, ta làm chủ chiến trường, diệt 1 đại đội bảo an cơ động của tiểu khu và 3 xe bọc thép, địch chết tại chỗ trên 50 tên, bắt sống 21 tên, thu 3 đại liên, 6 trung liên và nhiều tiểu liên súng trường. Trong số tên bị diệt có tên quận trưởng Diên Khánh Nguyễn Công Sáu.
Trận Cẩm Sơn là trận đánh lớn nhất, đạt hiệu quả cao ở chiến trường Khánh Hòa đã gây tác động mạnh trong hàng ngũ địch và trong quần chúng vùng Diên Khánh, Vĩnh Xương, Nha Trang.
Ở huyện Vĩnh Xương, lực lượng vũ trang liên tiếp mở các trận đánh địch: diệt tên Chừng, trung đội phó dân vệ khét tiếng gian ác ở xã Vĩnh Thái; tiến công trụ sở xã Vĩnh Thái diệt tên trung đội trưởng dân vệ và một số tên ác ôn khác trong ban tề xã; bắt tên nhân viên CIA Mỹ đội lốt thầy tu giả câm điếc xâm nhập căn cứ ta (Đồng Bò). Đêm 5 rạng ngày 6 tháng 12 năm 1961, tiểu đội vũ trang ở Vĩnh Xương bắt xử tội tên Trương Đắng, chủ tịch "Phong trào cách mạng quốc gia" quận tại xã Vĩnh Trung, bắt cảnh cáo một số tên khác và buộc phải cam đoan thôi việc. Đêm 7 tháng 12 năm 1961, ta đột nhập thôn Thủy Tú, xã Vĩnh Thái, bắt cảnh cáo số tề điệp; tổ chức mít tinh tuyên truyền chiến thắng Cẩm Sơn. Đầu năm 1962, đội vũ trang huyện phục kích trung đội nghĩa quân địch ở Cầu Ké diệt 16 tên thu 2 súng, đốt trụ sở xã Vĩnh Thạnh, đột nhập ga Phú Vinh đốt cháy 2 bồn xăng.
* *
*
Do phong trào được mở rộng và để thuận tiện cho việc chỉ đạo cả phía Bắc, phía Nam mà Diên Khánh là vùng trung tâm, cơ quan của Tỉnh ủy được chuyển từ Xóm Cỏ (Khánh Sơn) ra vùng A Xay (Khánh Vĩnh). Các cơ quan đóng sát chân Hòn Dù, phía Bắc khu tập trung Gia Lê cũ, là đầu mối các trục giao thông trong kháng chiến, đồng thời cũng là một khu vực có nhiều đất bằng phẳng thuận lợi cho việc trồng trỉa, sản xuất lương thực. Do được chuẩn bị từ trước, nên khi cơ quan chuyển đến là cán bộ bắt tay vào sản xuất được ngay.
Đến đầu năm 1962, phong trào trong tỉnh đang chuyển biến tốt. Các huyện miền núi đã vào thế ổn định vững chắc, sản xuất mở rộng, được mùa, đời sống đồng bào cán bộ và bộ đội được cải thiện. Ở đồng bằng, các đội vũ trang phát động quần chúng xây dựng cơ sở, liên tục tiến công địch và diệt ác làm cho thế kèm của địch bị lỏng ở nhiều nơi, cơ sở cách mạng phát triển đều, phong trào nhân dân du kích chiến tranh mở rộng. Lực lượng vũ trang của tỉnh và Liên tỉnh đã có những trận đánh đau, khiến cho bọn địch hoang mang lo sợ.
Thực tiễn trên đây chứng tỏ phong trào cách mạng trong tỉnh, cả miền núi và đồng bằng đang chuyển sang thế tiến công, đánh dấu "thời kỳ tạm ổn định của Mỹ-Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu"5.
ÂM MƯU XÂY DỰNG "ẤP CHIẾN LƯỢC" CỦA ĐỊCH
Trong âm mưu xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ có mưu đồ chiến lược rất to lớn là bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng. Về kinh tế, hướng miền Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc Mỹ. Về quân sự, xây dựng miền Nam thành căn cứ để chế ngự cả vùng Đông Nam Á, tiến công hệ thống xã hội chủ nghĩa và khống chế phong trào giải phóng dân tộc. Về chính trị, trong khi vẫn chú ý giai cấp địa chủ, đế quốc Mỹ ra sức xây dựng chỗ dựa trong giai cấp tư sản bản xứ, nâng đỡ tư sản mại bản, biến số này thành một tầng lớp quan liêu, quân phiệt, có quyền lực kinh tế, chính trị gắn liền với Mỹ, làm chỗ dựa vững chắc cho chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
Mưu đồ chiến lược trên đây là nhất quán trong suốt 5 đời tổng thống Mỹ xâm lược Việt Nam từ Ai-xen-hao, đến Ken-nơ-đi, Giôn-xơn, Ních-xơn, Pho6.
Chiến lược Ai-xen-hao, còn gọi là "Chiến lược chiến tranh đơn phương" nhằm thống trị miền Nam Việt Nam bằng chính quyền tay sai, cộng với chính sách viện trợ quân sự, kinh tế và hệ thống "cố vấn" Mỹ đã bị thất bại, nên bọn cầm đầu Nhà Trắng leo thang, gây "chiến tranh đặc biệt", thực hiện kế hoạch Sta-lay Tay-lo, nhằm "bình định miền Nam trong vòng 18 tháng". Lực lượng chiến lược chủ yếu vẫn là quân ngụy, nhưng được trang bị hiện đại với các chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận", đồng thời thực hiện kế hoạch nắm dân và "quốc sách ấp chiến lược".
Trong tình hình đế quốc Mỹ và tay sai leo thang mở rộng chiến tranh, dùng "chiến tranh không tuyên bố" để chống lại phong trào cách mạng, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp tháng Giêng năm 1961 quyết định: Đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị; tiến công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị; đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự là một phương châm công tác căn bản, cần vận dụng một cách linh hoạt ở khắp 3 vùng chiến lược: "rừng núi, đồng bằng, nông thôn và thành thị".
Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đầu năm 1962, lại tiếp tục vạch rõ: Mỹ-Diệm đang tiến hành cuộc "chiến tranh đặc biệt". Miền Nam đang ở trong tình thế một cuộc chiến tranh yêu nước chống xâm lược của nhân dân ta. Cuộc chiến tranh đó rất nguy hiểm, nhưng căn bản chúng vẫn đẩy mạnh các âm mưu khủng bố đã có từ trước. Quân ngụy vẫn là lực lượng chính trong cuộc chiến tranh. Do đó, đường lối, phương hướng, phương châm chỉ đạo đấu tranh vũ trang không có gì thay đổi về vấn đề đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của địch".
Tại Khánh Hòa, khi tiến hành "chiến tranh đặc biệt", một mặt Mỹ-Diệm tiếp tục tăng cường mở các cuộc càn quét, đánh phá căn cứ miền núi, xây dựng thêm các đồn, bót; mặt khác, chúng ra sức cào xúc dân vùng ven, bắt dân rào làng, gom dân lập "ấp chiến lược".
Địch dự kiến sẽ lập ở Khánh Hòa 281 "ấp chiến lược"7. Thông thường mỗi "ấp chiến lược" có nhiều rào và hầm, hào, chông mìn. Đồng bào bị lùa vào trong ấp, 7 giờ sáng mới được ra đi làm ăn, 5 giờ chiều đã phải về đủ. Trong ấp, ngoài bộ máy tề ngụy, địch thực hiện cái gọi là "xây dựng hàng rào nhân tâm" bằng việc phát triển các ngụy đoàn thể: "Phong trào cách mạng quốc gia", "Phụ nữ Liên đới", "Thanh niên Cộng hòa", thường xuyên có lính bảo an và thanh niên chiến đấu tuần tra, canh gác.
Ở Khánh Hòa, Mỹ-ngụy chủ trương chia làm 3 vùng để lập "ấp chiến lược". Nhưng chúng chỉ tạm thời thực hiện được ở vùng giáp ranh núi và vùng chúng kiểm soát... Đối với vùng miền núi giải phóng, chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá, nhưng vẫn không gom được dân.
Âm mưu của địch tạo một vành đai trắng ở vùng ven núi nhằm ngăn cách giữa đồng bằng với vùng căn cứ cách mạng. Chúng tiến hành trước nhất ở những thôn, xã có phong trào kháng chiến mạnh, có vị trí tiếp giáp với vùng rừng núi căn cứ của ta. Mỗi vùng chúng xây dựng một số ấp kiểu mẫu rồi lan dần ra các địa phương khác. Tùy theo địa hình cụ thể từng nơi, chúng bắt dân xây dựng theo các mô hình: 1 sông 1 núi hay 2 sông 2 núi, có nghĩa là 1 đường hào và 1 vòng rào hoặc 2 đường hào và 2 vòng rào kết song song nhau chạy bao bọc xung quanh ấp. Rào cao trung bình 2 mét, hào sâu trung bình 1,5 mét, rộng 2,5 trở lên. Dưới hào và mép hào bên trong đều cắm chông. Đồng thời còn có chông bàn di động bằng sắt để hàng đêm đặt thêm vào những đoạn rào cần thiết. Mỗi ấp có chừa một số cổng ra vào, ở mỗi cổng có bót kiểm soát, có chòi gác cao khoảng 3 - 4 mét, có mắc máy điện thoại nối về trụ sở ấp, có kẻng để báo động khi phát hiện được ta.
Điều hành xây dựng, chúng dựa vào thiết kế bắt nhân dân lên rừng chặt cây, lấy dây, mỗi người phải nộp ban đầu từ 100 đến 200 cây cọc rào, cao 2,5 mét, đường kính 0,15 mét trở lên. Nếu đau ốm không đi được thì nộp tiền 300 đồng một người. Chúng phân lô, phân đoạn giao khoán cho từng hộ làm, phải hoàn thành đúng thời gian qui định. Dây dưa kéo dài bị gán là thân cộng sẽ bị khủng bố, đánh đập. Rào xong phải thường xuyên tu bổ. "Việt cộng" vào ra ấp được ở đoạn hộ nào hộ đó phải chịu trách nhiệm, tức phải chịu đánh đập, tù đày.
Các ấp vùng đất cát ven biển chúng còn bắt rào thêm 1 lớp rào bên ngoài bằng cây gai bàn chải. Vùng ven rừng có đoạn phải rào bằng cây sống như tre gai. Bên trong ấp, chúng bắt tu sửa, cải tạo lại đường sá, mương rãnh, phân chia ấp thành từng ô đại biểu, liên gia, lấy đường sá làm ranh giới. Cổng vào từng nhà phải treo bảng có màu bị phân loại. Chúng tổ chức ra lực lượng thanh niên chiến đấu. Ngày khánh thành chúng tổ chức tập trận giả theo các phương án, các giả thuyết có lực lượng ta xâm nhập ở từng hướng. Lễ khánh thành ấp "Đôn Tín"8 được tổ chức trọng thể, có cố vấn Ngô Đình Nhu và 2 cố vấn Mỹ đến dự. Cuộc diễn tập qui mô gồm 1 đại đội bảo an, 1 tổng đoàn bảo vệ và thanh niên chiến đấu của ấp tham gia. Theo qui định của chúng, cứ 7 giờ sáng nhân dân mới được ra khỏi ấp đi làm ăn, 17 giờ phải về đủ mặt tại ấp. Chúng tổ chức bộ máy kèm đủ các loại lực lượng như ấp trưởng, ấp phó, phòng vệ dân sự, thanh niên chiến đấu, mạng lưới điệp báo viên để kiểm soát chặt mọi hành động của nhân dân.
Trong "chiến tranh đơn phương", bằng quốc sách "Tố cộng, diệt cộng", bằng biện pháp bắt nhốt cán bộ kháng chiến cũ và cơ sở cách mạng vào các nhà tù khổng lồ, rất tốn kém để tách cách mạng ra khỏi quần chúng, Mỹ-Diệm đã không thành công. Nay trong "chiến tranh đặc biệt", bằng quốc sách "Ấp chiến lược", Mỹ-Diệm rào nhốt dân tại chỗ trong từng ấp, dùng mọi thủ đoạn hết sức nham hiểm để tổ chức cho nhân dân tự kìm kẹp, trói buộc, khống chế giữa cách mạng với nhân dân bằng các lớp rào ấp chiến lược được hình thành từ tiền của công sức của nhân dân, ít tốn kém, nhưng rất lợi hại, đã được thử nghiệm thành công ở Malaixia, được Mỹ-Diệm nâng lên mức hoàn thiện đưa vào miền Nam để chiến thắng ta. Đó là một nguy cơ thách thức lớn đối với sự nghiệp cách mạng, đối với nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa.
Kế hoạch lập " Ấp chiến lược" của địch, lúc đầu gây cho ta rất nhiều khó khăn. Dân bị dồn và kiểm soát gắt gao cán bộ bị bật ra. Nhưng sau một thời gian chiến đấu hy sinh, cán bộ ta cũng đã tìm được cách đối phó có hiệu quả. Nhiều nơi cán bộ được sự giúp đỡ của cơ sở đào hầm bí mật bám sát bên trong.
Ấp chiến lược áp đặt cuộc sống kiểu trại lính, làm đảo lộn nếp sống truyền thống cần cù lao động "một nắng hai sương", ưa tự do của người nông dân, ngoài ra người dân còn phải gánh chịu rất nhiều loại "lệ phí" tốn kém, làm cho họ hết sức bất bình, chống đối. Thực tế diễn ra là khi địch bắt đầu rào làng thì cũng là lúc nhân dân bắt đầu phá theo khẩu hiệu: "dân làm, dân phá, địch bắt dân làm lại, dân lại phá", phá bằng nhiều hình thức khôn khéo địch khó phát hiện. Có những đoạn chỉ cắm cây mà không buộc dây, để cho cán bộ dễ ra vào. Có nhiều ấp bị phá đi phá lại năm, mười lần. Có những thôn địch thúc ép dân làm hai, ba năm rồi mà chưa hoàn thành. Nhân dân tìm cách đấu tranh khôn khéo để dây dưa, kéo dài. Có hàng trăm người vào núi chặt cây đã nộp hết rựa cho cán bộ rồi về báo cáo với địch là Việt cộng thu hết rựa. Họ còn phụ lực cùng cán bộ đốt các đống cây do bọn lính chặt đem về, hoặc tự phá nhiều chỗ rào, rồi tung tin là bộ đội giải phóng về phá. Ở huyện Ninh Hòa ngay trong một số ấp được rào xong, cơ sở vẫn tiếp tục nuôi dấu cán bộ như ấp Lạc Hòa (xã Ninh An); ấp "kiểu mẫu" Vạn Hữu, Phú hòa (xã Ninh Quang), Trường Lộc, Tân Hưng (xã Ninh Hưng), Hòa Thuận, Ngũ Mỹ, Tân Lạc (xã Ninh Xuân) cán bộ hợp pháp bên trong nắm được đông đảo quần chúng, hình thành một kiểu dân làm chủ trong ấp chiến lược.
Địch tổ chức thanh niên chiến đấu, trang bị súng bắn đạn ria để sát thương cán bộ, nhưng khi ta đã gây được cơ sở thì chính số thanh niên này lại làm nhiệm vụ báo tin, canh gác bảo vệ cán bộ ta ra vào ấp để hoạt động. Đội trưởng phòng vệ dân sự ấp Lạc Hòa (xã Ninh An), liên toán trưởng phòng vệ xã Ninh Phụng là bí thư chi bộ Đảng Cộng sản, trong nhà có hầm nuôi dấu cán bộ. Thanh niên xã Ninh Thọ, bề ngoài là thanh niên chiến đấu của ngụy quyền, bên trong là du kích mật của cách mạng. Nhân dân nhiều ấp vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ kháng chiến như ấp Lạc Hòa dùng xe bò chở một lúc trên 300 giạ lúa lên căn cứ. Nhân dân các ấp Phú Hòa, Vạn Hữu, xã Ninh Quang hàng ngày đưa từng xe lam muối và hàng hóa thiết yếu về nhà để tiếp tế cho ta. Địch biết, ra sức cấm đoán, nhưng vẫn không ngăn cản được dân. Nhiều lần địch đưa quân lên Chợ Mới chiếu lệ rồi kéo về, không dám đến Vạn Hữu, Phú Hòa, Thạnh Mỹ. Từ phong trào xã Ninh Quang mở ra các xã Ninh Bình, Ninh Lộc, Ninh Xuân và xuống quận lỵ Ninh Hòa.
Những cuộc đấu tranh chống càn thắng lợi của đồng bào các dân tộc miền núi, hoạt động của các đội vũ trang, tuy chưa rộng và mạnh, nhưng đã cổ vũ phong trào đồng bằng đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, thực hiện ba mũi giáp công phá kế hoạch lập ấp chiến lược của địch có hiệu quả.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA LẦN THỨ BA
Tháng 2 năm 1962, Đại hội đại biểu Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ ba (Đại hội đầu tiên trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước) được triệu tập. Đại hội lần này khẳng định sự phục hồi của Đảng bộ sau khi đã vượt qua chặng đường khó khăn nhất trong những năm 1955-1959. Đại hội họp tại buôn A Xây phía Tây-nam Hòn Dù, có 40 đại biểu tham dự.
Đại hội đã đánh giá tình hình, tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị song song, kinh nghiệm vận dụng hai chân ba mũi giáp công; công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, kinh nghiệm phá ấp chiến lược, phá kèm. Đại hội đã đề ra những chủ trương lớn:
- Tập trung sức xây dựng cơ sở ở nông thôn đồng bằng, tiếp tục phá kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược của địch. Tích cực bám dân, bám cơ sở, chú trọng đào hầm bí mật bám địa bàn vùng sâu, ven đường giao thông chiến lược, căn cứ quân sự địch.
- Phát triển cơ sở ở thị xã, thị trấn, tăng cường cán bộ cho Nha Trang, chú trọng Đá Bạc, Ba Ngòi.
- Củng cố miền núi thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đồng bằng, tạo thế liên hoàn với vùng căn cứ của các tỉnh Ninh Thuận, Đắc Lắc và Lâm Đồng. Tích cực tăng gia sản xuất, coi cây mì là chiến lược, bắp, lúa là quan trọng, phát triển trồng bông để giải quyết một phần vải mặc cho dân, khơi luồng tiếp tế muối, vải, nông cụ cho miền núi.
- Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang ở đồng bằng và miền núi.
- Kiện toàn sự chỉ đạo của Đảng bộ, tiến hành đại hội ở cấp huyện.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí: Mai Dương, Tô Văn Ơn, Lưu Văn Trọng, Lê Tụng, Phạm Thành Huyên, Hà Huy An, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Qúy Hanh, Huỳnh Tưởng, Nguyễn Lương, Nguyễn Châu (Châu Râu), Trần Văn Quế (Mười Kinh), Võ Cứ, do đồng chí Mai Dương làm bí thư, đồng chí Tô Văn Ơn làm phó bí thư và các đồng chí Lưu Văn Trọng, Lê Tụng, Phạm Thành Huyên, ủy viên Thường vụ. Các đồng chí tỉnh ủy viên được phân công phụ trách các ngành, làm bí thư các huyện ủy và thị ủy Nha Trang.
PHÁ KẾ HOẠCH GOM DÂN, LẬP ẤP CHIẾN LƯỢC - PHÁ TAN CHIẾN DỊCH "THIỀM ĐẦU THỦY"
Trước tình hình phong trào đồng bằng trong tỉnh có bước phát triển, tỉnh chủ trương phát động quần chúng vùng dậy làm chủ ở những địa bàn có phong trào khá. Huyện ủy Bắc Ninh Hòa chọn xã Ninh Phước là xã vùng căn cứ kháng chiến cũ, nhân dân giác ngộ cách mạng cao, có nhiều cơ sở và cán bộ lãnh đạo vững vàng. Ngày 23-3-1962, một tiểu đội võ trang huyện phối hợp với du kích hỗ trợ cho nhân dân 2 thôn Ninh Tịnh và Ninh Yển nổi dậy khởi nghĩa truy quét tề, diệt ác ôn, xóa bỏ ngụy quyền, lập chính quyền tự quản. Nhân dân biến "ấp chiến lược" của địch thành làng chiến đấu, tổ chức du kích, xây dựng cơ sở, lo sản xuất làm ăn, bảo vệ xóm làng. Địch sử dụng biệt kích biển phản kích đánh chiếm lại mấy lần đều bị du kích đánh bật ra. Do khéo nghi binh, địch không dám tiếp tục mò vào, chúng xoay sang bao vây kinh tế, phong tỏa nguồn cung cấp gạo và dội bom, bắn pháo vào làng uy hiếp tinh thần nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền tự quản, 300 đồng bào Ninh Phước kéo lên quận đấu tranh, nhưng vừa đến trụ sở xã Ninh Diêm thì gặp tên quận trưởng. Tại đây đồng bào kéo vào đấu tranh quyết liệt, đòi để nhân dân được mua bán gạo như cũ, đòi không được dội bom, bắn pháo vào dân. Trước áp lực mạnh mẽ của nhân dân, tên quận trưởng buộc phải nhượng bộ, giải tỏa. Đây là cuộc nổi dậy khởi nghĩa đầu tiên, cuộc xuống đường đấu tranh bằng bạo lực chính trị ban đầu thắng lợi, có ảnh hưởng tốt và rút được một số kinh nghiệm bổ ích.
Sau sự kiện này, địch không còn kiểm soát được xã Ninh Phước. Tháng 8-1962, chúng đưa 1 trung đoàn có xe lội nước, tàu biển đến bao vây xúc dân thôn Đầm Vân và đưa trước các gia đình ngụy quân, ngụy quyền của thôn Ninh Tịnh, Ninh Yển vào Vĩnh Hải - Nha Trang. 3 ngày sau đó, chúng bốc số dân còn lại vào khu tập trung Đông Dương xã Ninh Diêm. Còn 17 gia đình (gồm 72 khẩu) của 2 thôn Ninh Tịnh và Đầm Vân kiên quyết đấu tranh, thoát ra rừng, bám lại quê hương sản xuất sinh sống, tham gia kháng chiến cho đến ngày giải phóng.
Ở Bắc Ninh Hòa các đội võ trang liên tục hoạt động diệt tề, ác ôn hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược. Ở Nam Ninh Hòa, tháng 3-1962, ta dùng chiến thuật lót quân tại trụ sở xã Ninh Hưng đánh bất ngờ diệt một dân vệ, bắt sống tên phó đại diện xã, thu 13 súng, nhiều lựu đạn và tài liệu, đốt trụ sở xã, treo cờ Mặt trận và rút lui an toàn. Đây là trận lót đánh địch ban ngày đầu tiên của bộ đội địa phương ở Nam Ninh Hòa, gây thanh thế cho phong trào. Cũng thời gian này, ta đột nhập vũ trang tuyên truyền tại Thạnh Mỹ, Phú Hòa, bắt sống 4 dân vệ, thu 3 súng phà. Phần lớn cán bộ Ban cán sự Nam Ninh Hòa bám dân đào hầm bí mật tại các thôn Phú Hòa, Vạn Hữu, Trường Lộc, Tân Hưng, Tam Ích, Phú Hữu v.v... Phong trào phá "ấp chiến lược" lên khá, mở rộng một mảng lỏng kèm từ Ninh Quang đến Ninh Hưng, Ninh Bình, Ninh Lộc.
Đầu tháng 2-1962, tiểu đoàn 120 chặn đoàn xe lửa ở Nam ga Hòa Tân 3 km để mua lương thực (gạo, dường, sữa...) hàng trăm dân công và du kích căn cứ được huy động trước, liên tục chuyển tải vào rừng cách đường sắt khoảng 500m, sau đó tổ chức từng cung đoạn chuyển tải suốt 3 ngày liền đưa về căn cứ, nhưng địch không có phản ứng nào đáng kể.
Sau đợt giải quyết lương thực, tiểu đoàn để lại đại đội 3 bộ binh cùng địa phương phát triển chiến đấu xuống vùng Thủy Triều. Đại đội 3 tổ chức luồn sâu, giữa ban ngày diệt 1 trung đội dân vệ làm chủ ấp và phục kích đánh địch ở sườn Nam núi Cầu Hin. Trận đánh vào ấp và phục kích trên không lớn nhưng đã gây chấn động và lo ngại cho địch ở đây, nên địch phải điều lực lượng bảo an quận và tỉnh ứng cứu, chặn đường rút của ta ở phía Cầu Hin. Nhưng ta không rút về hướng đó. Ba ngày sau trận đánh ấp, được đồng bào giúp đỡ ghe, thuyền tổ chức cho bộ đội vượt đầm Thủy Triều sang Bãi Giếng phục kích đánh địch trên đường số 1, và sau đó đột nhập phá Công trường Thủy quân lục chiến cách Ba Ngòi 6 km về phía Bắc. Tiếp đó, đại đội 3 cùng lực lượng địa phương mở 1 đợt hoạt động đột nhập ấp từ Ba Ngòi đến Cửu Lợi, Hòa Tân (trên đường 1) qua đến Cầu Hin, Thủy Triều. Nhịp độ hoạt động dày và có kết quả không chỉ do địch sơ hở, mỏng, yếu, mà còn do đại đội 3 có cách đánh tốt và có 1 số cán bộ chiến sĩ là người địa phương, am hiểu địa hình, nắm được qui luật hoạt động của địch và được nhân dân các ấp che chở, ủng hộ.
Giữa tháng 3-1962, đại đội 3 chuyển ra hoạt động từ Suối Dầu đến Đại Điền (Diên Khánh) nhưng vẫn để lại 1 tiểu đội người địa phương do chuẩn úy Lâm chỉ huy tiếp tục hoạt động xây dựng cơ sở, mở phong trào. Về sau số đồng chí này trở thành đội võ trang công tác, cán bộ xã, huyện.
Vào mùa mưa năm 1962, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 120 có ý định sử dụng đặc công đánh cứ điểm Suối Chình (km 24 đường 21) do 1 trung đội bảo an đóng giữ, và đại bộ phận tiểu đoàn phục kích đánh viện Ninh Hòa, Nha Trang diệt sinh lực địch hỗ trợ cho phong trào phía Bắc tỉnh. Nhưng do địch càn vùng căn cứ, Bộ Tư lệnh Quân khu điều tiểu đoàn về phía Nam nhưng vẫn để lại đặc công và 1 trung đội bộ binh đánh cứ điểm Suối Chình. Do chuẩn bị tốt nên trận đánh thuận lợi, sau 25 phút chiến đấu ta tiêu diệt cứ điểm Suối Chình, thu toàn bộ vũ khí.
Ở Diên Khánh, địch đưa quân bao vây các thôn vùng ven: Đất Sét, Khánh Xuân, Xuân Lâm, Cẩm Sơn bắt đồng bào dồn xuống vùng sâu, tạo thành vành đai trắng. Đồng bào đã 3 lần đấu tranh trở về làng cũ, cứ mỗi lần như vậy địch cho quân lùng sục, đốt phá hoặc cho máy bay ném bom, bắn pháo vào làng giết hại người và gia súc.
Khi nhân dân ở các vùng giáp ranh rừng núi nổi dậy phá rào ấp chiến lược thì địch phản ứng bằng cách dồn xúc dân đi nơi khác, nhưng nhân dân không để địch hành động dễ dàng. Cuộc đấu tranh đã diễn ra trong thế giằng co quyết liệt.
Nhìn chung, tình hình đang phát triển thuận lợi nhờ đường lối chính trị sáng suốt của Trung ương Đảng kịp thời phát động đấu tranh vũ trang và chính trị song song chống lại cuộc "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ, đặt rõ trọng tâm vào công việc đấu tranh giành dân, giành quyền làm chủ, làm thất bại "quốc sách ấp chiến lược". Hệ thống tổ chức của Đảng bộ được giữ vững và củng cố chẳng những ở vùng căn cứ miền núi đã được giải phóng, mà cả ở đồng bằng, thị xã, thị trấn.
Đến cuối năm 1962, lực lượng quân sự của tỉnh đã phát triển gồm tiểu đoàn Sông Lô, đại đội người dân tộc 548, đội đặc công, trung đội trinh sát, trung đội thông tin, đội công binh, trung đội vận tải, 2 bệnh xá, 1 xưởng quân giới, đội sản xuất hậu cần, trường huấn luyện quân sự.
Mỗi huyện có trung đội bộ binh, tiểu đội công binh, tổ đặc công, tổ sản xuất vũ khí. Ngoài ra, còn một lực lượng du kích tại chỗ trên khắp địa bàn tỉnh, kể cả trong các ấp chiến lược của địch.
Bọn địch đã nhận thấy vị trí quan trọng của miền núi đối với phong trào cách mạng ở Khánh Hòa. Ở đây, chúng không đóng được đồn, không xây dựng được cứ điểm, cũng không lùa được dân vào các ấp chiến lược. Cho nên, một mặt chúng ra sức bao vây kinh tế, nhất là muối và vải là hai thứ hàng thiết yếu nhất đối với đời sống của đồng bào các dân tộc; mặt khác, chúng cho máy bay thường xuyên oanh tạc, thả truyền đơn, tung gián điệp, biệt kích, tuyên truyền xuyên tạc các chính sách kháng chiến của Đảng và Mặt trận Dân tộc giải phóng. Đáng chú ý là nhóm gián điệp do Hồ Đức Trí cầm đầu, tổ chức mạng lưới đánh phá phong trào miền núi huyện Vĩnh Khánh trong một thời gian dài. Vào tháng 3-1962, chúng kết hợp thủ đoạn dùng thần quyền của đạo Tin Lành với hù dọa xuyên tạc để lôi kéo 347 đồng bào ở 5 thôn Soi Mít, Pa Cẳng, Suối Giếng, Suối Cá, Suối Bồ "chạy thánh" xuống vùng địch kiểm soát. Lần "chạy thánh" thứ hai vào tháng 3-1963, chúng kéo hơn 200 đồng bào bỏ làng để xuống vùng địch. Ta kịp thời phát hiện chặn lại tại Bắc Hòn Lớn; tiểu đội du kích do đồng chí Máu Đấu chỉ huy diệt tên Hồ Đức Trí tại Cây Sung (Đồng Trăng) xóa một ổ gián điệp nguy hiểm, mặc dầu vậy vẫn có hàng mấy trăm dân vùng căn cứ chạy về vùng địch.
Cùng với chiến tranh gián điệp, bao vây kinh tế, địch liên tiếp mở các cuộc càn quy mô lớn cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đánh phá căn cứ miền núi.
Cuộc càn quy mô lớn chúng lấy tên là "chiến dịch Thiềm Đầu Thủy" được tiến hành vào ngày 1 tháng 6 năm 1963.
Lực lượng tham gia cuộc càn là hai trung đoàn chủ lực và 3 tiểu đoàn tăng cường gồm trên 2.600 quân, có 23 máy bay trực thăng, 2 máy bay trinh sát, 5 máy bay khu trục và 1 đại đội pháo 105 ly.
Trọng điểm cuộc càn là lưu vực sông Tô Hạp, huyện Khánh Sơn là nơi đóng các cơ quan đầu não của tỉnh những năm trước đây9. Ngày 1 tháng 6 năm 1963, địch cho máy bay ném bom phát quang, dọn bãi, sau đó hàng đoàn máy bay trực thăng nhiều lượt đổ quân, thả vũ khí, đạn dược, đồ tiếp tế, có cả 4 pháo 105 ly. Chúng tiến hành xây công sự dã chiến tại Tà Gụ. Ngày 3 tháng 6, tên thiếu tướng Tôn Thất Đính đích thân đến Xóm Cỏ thị sát trận địa.
Sau khi xây dựng và củng cố cứ điểm hành quân, địch bắn pháo lớn suốt ngày đêm vào các buôn rẫy xung quanh, chia quân càn quét các ngả, đốt cháy nhà cửa kho lương thực của đồng bào. Có máy bay yểm trợ, một cánh quân khác từ Cam Ranh lên bằng đường bộ, bung ra đánh phá, lùng sục các buôn làng.
Lực lượng ta tham gia chống càn lần này chủ yếu lực lượng bộ đội địa phương Khánh Sơn, và 1 trung đội của tiểu đoàn Sông Lô cùng với du kích cán bộ và đồng bào vùng căn cứ.
Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở và địa hình thông thuộc, các lực lượng ta phát huy cao độ tác dụng của mang cung, bẫy đá, hầm chông, tên thuốc độc kết hợp với các loại vũ khí khác, chiến đấu mưu trí, dũng cảm diệt trên 200 tên địch, trong đó có gần 60 tên bị trúng tên thuốc độc, trên 70 tên bị sập bẫy chông. Có trường hợp du kích một xã chỉ dùng tên ná và bẫy chông đã giết và làm bị thương 24 tên địch. Con đường Tha Măng - Dốc Trầu bị quân ta chặn đánh liên tục. Tên thiếu tá chỉ huy cánh quân phía Đông bị du kích Tô Hạp bắn chết tại trận.
Địch bị đánh đau cụm lại, không dám ngang nhiên lùng sục nhưng vẫn bị bộ đội, du kích bắn tỉa khi chúng đi lấy nước, đi qua rẫy trống. Có trận ta diệt gọn cả một trung đội đi nhổ mì của đồng bào.
Phần bị quân ta tiến công, phần do thời tiết khắc nghiệt của núi rừng cho nên địch phải rút lui, kết thúc cuộc càn lên Khánh Sơn.
Khi thấy máy bay cần cẩu chở pháo 105 ly chuyển đi, có dấu hiệu địch chuẩn bị rút lui, đồng bào, du kích, bộ đội địa phương và trung đội Sông Lô đã tích cực bao vây tiến công. Cánh quân địch rút lui bằng đường bộ bị chặn đánh tại Suối Giá, Ba Cụm. Địch không dám đi theo đường mòn phải xuyên rừng. Từ Ba Cụm về Đồng Lác đáng lẽ chỉ đi 8 tiếng đồng hồ, nhưng đội quân thất trận này phải đi mất 8 ngày. Sĩ quan, binh lính địch sợ hãi gọi lưu vực sông Tô Hạp là "Thung lũng tử thần".
Đồng thời với cuộc đổ quân ở Xóm Cỏ (Khánh Sơn) là trọng điểm cuộc càn. Cũng trong ngày 1-6-1963, 1 cánh quân của địch từ Thành lên vùng Gia Lê (Khánh Vĩnh) vượt qua tuyến cảnh giới của đơn vị Sông Lô đóng gần Giang Ché (nơi huyện lỵ Khánh Vĩnh hiện nay), chúng càn quét vùng xung quanh cơ quan Tỉnh đội, bị đơn vị 548 bám đánh. Ngày 2-6, chúng qua sông Trang, xuống sông Cầu bị du kích bắn chết 4 tên bằng tên thuốc độc. Đến đầu tháng 8 năm 1963, địch lại dùng 2 cánh quân càn quét vùng Vĩnh Khánh. Cánh thứ nhất gần 1 tiểu đoàn đổ quân ở đường 21, càn vào vùng Tô Lê, Suối Bồ, Pa Cẳng đến trước cơ quan huyện ủy Vĩnh Khánh đóng tại Suối Lách, bị du kích và lực lượng vũ trang huyện bám đánh liên tục, địch hành quân dè dặt, 1 ngày chỉ đi được khoảng 3 km đường rừng. Cánh quân này, ngày 25-8-1963 rút qua thôn Suối Gia, đốt nhà, phá hoa màu rồi rút về Nha Trang theo ngõ Đất Sét. Cánh quân thứ hai cũng theo trục đường sông Cái, càn lên vùng xung quanh cơ quan tỉnh đóng ở Gia Lê, chúng bị lực lượng 548, trinh sát tỉnh bao vây đánh liên tục, bị tiêu hao lực lượng. Đến ngày 25-8-1963, chúng rút về Thành Diên Khánh theo trục đường sông Cái cùng lúc với đơn vị càn ở Vĩnh Khánh.
Đây là cuộc càn dài ngày nhất và ác liệt nhất ở vùng căn cứ Khánh Hòa, với âm mưu rút 15.000 dân về tập trung ở vùng đồng bằng, xóa căn cứ miền núi. Sau 75 ngày càn quét, địch bị tiêu hao nặng nề, trên 300 tên chết và bị thương. Địch không rút được người dân nào ra khỏi căn cứ mà bị tiêu hao nặng bởi sức mạnh kỳ diệu của chiến tranh nhân dân.
Phối hợp với chống càn ở căn cứ, các đội vũ trang ở đồng bằng hoạt động mạnh, diệt ác, phá kèm, ở một số xã, thôn, xây dựng cơ sở rộng khắp hơn trước.
Phong trào đấu tranh trong các đô thị lên cao. Tăng ni, phật tử ở các thị xã, thị trấn nổi dậy chống phân biệt tôn giáo, chống đàn áp Phạt giáo. Ngày 15 tháng 8 năm 1963, ni cô Diệu Quang tự thiêu cạnh trụ sở "Phong trào cách mạng quốc gia" ở thị trấn Ninh Hòa, gây không khí bất bình và phẫn nộ cao độ trong nhân dân vùng địch kiểm soát. Phong trào chống chế độ Mỹ-Diệm hà khắc, liên kết với phong trào chống bắt lính, chống áp bức bóc lột, chống ngụy quyền tham nhũng đã trở thành một mặt trận chống Mỹ, chống Diệm rất rộng rãi và mạnh mẽ.
Cách mạng đang phát triển ở cả ba vùng chiến lược. Còn địch vừa bị thất bại ở miền núi, sơ hở ở đô thị và đồng bằng nên phải vội vã quay về bảo vệ hậu cứ của chúng.
Trong gần 3 tháng, mưu đồ của địch là triệt phá căn cứ đầu não kháng chiến, nhằm cào xúc 15.000 dân miền núi dồn vào các khu tập trung ở đồng bằng. Nhưng chúng bị mạng lưới chiến tranh nhân dân phối hợp rộng khắp, từ rừng núi đến đồng bằng, đô thị, làm thất bại một bước nghiêm trọng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ tại địa bàn Khánh Hòa.
PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI GIẢI PHÓNG MỘT PHẦN QUAN TRỌNG NÔNG THÔN VÀ ĐỒNG BẰNG
Từ giữa những năm 1963, cách mạng miền Nam với phong trào "thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công" tiến lên mạnh mẽ, làm cho mâu thuẫn trong giới cầm quyền miền Nam, giữa Mỹ và ngụy trở nên rất sâu sắc.
Ngày 1-11-1963, đế quốc Mỹ tiến hành đảo chính quân sự, thay ngựa giữa dòng, giết chết "Tổng thống" Ngô Đình Diệm và "Cố vấn" Ngô Đình Nhu, đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên làm Tổng thống. Phong trào cách mạng ở miền Nam lên mạnh, địch càng rối ren, phải thay Nguyễn Khánh bằng Trần Văn Hương nhưng vẫn lún sâu vào thất bại.
Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại thôn Đa Tây, xã Khánh Thượng (Vĩnh Khánh) do đồng chí Nguyễn Hồng Châu, Uỷ viên Ban Thường vụ Khu ủy 5 vừa về nhận công tác tỉnh Khánh Hòa chủ trì. Được tin đảo chính xảy ra ở Sài Gòn, hội nghị quyết định tạm ngừng, tranh thủ thời cơ thuận lợi để triển khai lực lượng, đưa cán bộ và lực lượng vũ trang về mở rộng mạng lưới, xây dựng cơ sở ở đồng bằng.
Đối với ta, tình hình lúc này tương đối thuận lợi, ngụy quân, ngụy quyền đang hoang mang, dao động, lâm vào tình trạng suy sụp và khủng hoảng nghiêm trọng. Chủ trương của Tỉnh ủy đưa ra là đúng đắn và kịp thời, song vì cơ sở và thực lực của Đảng bộ ở đồng bằng còn yếu, nên việc tranh thủ thời cơ để chuyển phong trào lên còn nhiều hạn chế.
Cuối năm 1963, theo chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, tỉnh Khánh Hòa tách khỏi Khu VI trở lại Khu V và là thành viên của Liên tỉnh 310.
Tháng 2 năm 1964, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại A Xay (Hòn Dù), Hội nghị đã bầu đồng chí Tô Văn Ơn làm Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Lưu Văn Trọng làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã thống nhất nhận định phong trào các huyện miền núi ngày càng được củng cố, nhất là sau khi đánh bại cuộc càn "Thiềm Đầu Thủy" của địch, nhưng ở đồng bằng sự giằng co giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Địch ra sức rào làng, lập ấp, xây dựng ngụy quyền, ngụy quân, kèm kẹp quần chúng. Ta thì tận dụng mọi phương pháp và khả năng đấu tranh để phá kèm, giành dân, giành quyền làm chủ. Bộ máy của các đảng bộ huyện, xã đang dược kiện toàn nhưng cán bộ chưa xây dựng được chỗ đứng chân vững chắc trong quần chúng, nên sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cơ sở còn nhiều hạn chế.
Hội nghị Tỉnh ủy chủ trương tiến hành một đợt đấu tranh tự phê bình và phê bình mạnh mẽ trong các cấp ủy, trong cán bộ đảng viên và lực lượng vũ trang, chống tư tưởng hữu khuynh, co thủ rụt rè, quán triệt phương châm đấu tranh chính trị và vũ trang song song, phương châm hai chân, 3 mũi giáp công. Những cán bộ trước đây thoát ly ở căn cứ nay về đào công sự bí mật bám lại thường xuyên trong nhân dân. Các đơn vị bộ đội chủ lực về đứng chân ở đồng bằng để hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, cơ quan chỉ đạo của Tỉnh ủy chuyển về Suối Thơm (Hòn Dữ).
Thi hành chủ trương của Tỉnh ủy, các huyện ủy tổ chức cán bộ thành các đội võ trang công tác, tỏa xuống các địa bàn. Ở Ninh Hòa, các đội võ trang công tác xây dựng cơ sở vào vùng sâu, đông dân như: Quang Đông, Xuân Hòa, Điềm Tịnh, Phước Đa, Hòn Khói, các thôn thuộc xã Ninh Hưng, Ninh Quang, Ninh Bình, thành lập được Ban cán sự quận lỵ Ninh Hòa. Tại Vạn Ninh, xây dựng được một chi bộ hợp pháp gồm 3 đồng chí ở Vạn Phú và phát triển cơ sở trong thị trấn Vạn Giã. Năm 1964, toàn huyện xây dựng được 7 chi bộ hợp pháp. Tại Vĩnh Xương, các đội võ trang công tác phát triển cơ sở trong nhiều thôn, xã dọc quốc lộ I đoạn Nha Trang - Thành, tạo cơ sở bàn đạp cho thị xã Nha Trang, ở các xã Vĩnh Phương, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Ngọc... Ở Nha Trang, cơ sở được xây dựng trong công nhân hỏa xa, nhà đèn, hình thành các đội tự vệ bí mật, hầu hết là thanh niên học sinh có tâm huyết; đảo Hòn Tre và các vùng Trường Tây, Cửa Bé trở thành bàn đạp trực tiếp và vững chắc cho Nha Trang. Ở Cam Ranh - Ba Ngòi, các đội võ trang công tác xây dựng được cơ sở ở Hòa Tân, Trại Cá, Mỹ Thạnh, Đồng Lác, rút được thanh niên thoát ly, xây dựng được 1 chi bộ gồm 3 đồng chí ở Lập Định và mở ra các thôn Cây Xoài, Vĩnh Phú, Trà Long.
Cán bộ về làng bám dân, bám đất hoạt động có hiệu quả, trước hết là nhờ sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân. Phần lớn các hầm bí mật ở các thôn xã đều do dân góp sức, bắt đầu từ việc tìm địa điểm, đào hầm, chuyển đất đi nơi khác, đến việc nuôi nấng chăm sóc, bảo vệ, tạo điều kiện cho cán bộ hoạt động... Mọi việc được tiến hành hết sức thận trọng, khẩn trương, mà vẫn bảo đảm công việc làm ăn bình thường hàng ngày của dân. Đồng bào biết rất rõ việc nuôi dấu cán bộ trong nhà trong hoàn cảnh địch o ép khủng bố nặng nề là một việc làm vô cùng nguy hiểm, nếu bị chúng phát hiện sẽ khó thoát khỏi cảnh tù đày tra tấn, tan nhà, nát cửa, nhưng dù nguy hiểm, gian khổ đến đâu nhân dân quyết không sợ, vì cái qúy nhất đối với mỗi người dân lúc này là phải giành lại nền độc lập tự do của Tổ quốc, là sự nghiệp thống nhất đất nước.
Vào giữa năm 1964, liên Tỉnh ủy và Phân khu Nam quyết định điều cho Khánh Hòa đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 30. Đây là đơn vị vũ trang đang hoạt động trên chiến trường Phú Yên, có nhiều thành tích trong đánh địch, xây dựng phong trào.
Lực lượng vũ trang của tỉnh lúc này có 884 người, tổ chức thành 3 đại đội bộ binh, 1 dại đội công binh, 1 trung đội đặc công, 1 trung đội trinh sát, 1 trung đội thông tin, 1 trung đội vận tải, 2 bệnh xá, 1 cơ quan hậu cần.
Ở các huyện miền núi có 814 cán bộ chính trị, 2.108 người thuộc lực lượng bán vũ trang, so với dân số chiếm tỉ lệ 11%. Ở các xã, đảng viên, đoàn viên sinh hoạt trong 48 chi bộ đảng và 55 chi đoàn thanh niên nhân dân cách mạng (tức Đoàn Thanh niên Cộng sản).
Tỉnh ủy đã tập trung nhiều sức lực vào việc mở phong trào đồng bằng, vì đó là nơi đông dân, cung cấp nhân tài, vật lực cho cách mạng. Nhưng địch cũng đang kiểm soát chặt đồng bằng, lấy nhân tài, vật lực ở đó để đánh ta. Do đó, việc mở đồng bằng là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt, phải có quyết tâm cao và phương pháp cách mạng đúng đắn mới giành được thắng lợi.
Tỉnh ủy tổ chức tập huấn cho cán bộ chính trị và quân sự tỉnh, huyện vào tháng 9-1964. Hội nghị nghiên cứu kinh nghiệm thành công ở một số nơi trong Khu và trong toàn miền Nam về phát động quần chúng, diệt ác, phá kèm, đưa quần chúng tiến lên thế tranh chấp và làm chủ.
Thu-Đông năm 1964, các tỉnh Khu V bị lụt lớn. Địch lợi dụng thiên tai, tổ chức liên tiếp các cuộc vây ráp, xăm lục tìm hầm bí mật, phát hiện cán bộ bám trong dân. Mặc dù vậy, toàn Đảng bộ, cán bộ chính trị và lực lượng vũ trang vẫn nô nức, quyết tâm thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, phát động cuộc đồng khởi lớn vào đêm 6 rạng ngày 7 tháng 11 năm 1964.
Bắc Khánh Hòa là trọng điểm 1, có Ban chỉ đạo gồm các đồng chí Tô Văn Ơn, Bí thư Tỉnh ủy phụ trách chung và các đồng chí Võ Cứ, Tỉnh đội trưởng, Nguyễn Châu, Bí thư và Nguyễn Lương, Phó Bí thư huyện Bắc Ninh Hòa và Vạn Ninh. Lực lượng tham gia chiến dịch bao gồm các đơn vị vũ trang địa phương, đại đội 83, tiểu đoàn 30 của Phân khu Nam (mật danh là K.71) do đồng chí Ông Văn Bưu chỉ huy.
Theo kế hoạch, xã Ninh Diêm là điểm đột phá, nhằm thu hút lực lượng địch để hỗ trợ cho hướng chính giải phóng 2 xã Ninh An, Ninh Thọ; các xã khác trong huyện làm nhiệm vụ phối hợp. Đêm 6 tháng 11 năm 1964, đại đội độc lập 83 tập kích đại đội bảo an và tổng đoàn dân vệ tại thôn Phú Gia xã Ninh An, phát triển truy kích địch ở các thôn Nội Mỹ, Phước Thuận, xã Ninh Đông. Một đơn vị khác của K.71 tập kích khu tập trung dân Xuân Hà (Vạn Hưng - Vạn Ninh) rồi chốt quân ở dốc Đá Trắng ngăn chặn sự chi viện của địch từ Ninh Hòa ra, ở Vạn Ninh vào làm chủ đoạn quốc lộ I dài trên 10 km. Cùng đêm 6 rạng 7 tháng 11 năm 1964, đại đội 5 của tiểu đoàn 30 phối hợp với đại đội bộ đội địa phương Bắc Ninh Hòa tấn công trụ sở ngụy quyền xã Ninh Diêm đóng tại thôn Phú Thọ có lực lượng bảo an và nghĩa quân đóng giữ. Trận đánh diễn ra gay go và kéo dài. Ta kịp thời phát động quần chúng nổi dậy cùng với lực lượng vũ trang giải quyết dứt điểm buộc địch phải tháo chạy, giải phóng xã.
Trong khi địch bị hút về phía Ninh Diêm, tại 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, với lực lượng du kích là chính, nhân dân nhất tề nổi dậy giải phóng xã, thiết lập chính quyền cách mạng, triển khai những nhiệm vụ cấp bách đối với vùng mới giải phóng, đồng thời tổ chức lực lượng, chuẩn bị chống địch phản kích, kế hoạch hậu cần tiếp tế cho bộ đội, du kích...
Sáng ngày 7 tháng 11, địch rải quân trên quốc lộ I chuẩn bị phản kích vào vùng giải phóng. Lực lượng binh vận 2 xã, chủ yếu là chị em phụ nữ kéo ra đối mặt với địch vừa hù dọa, vừa khéo léo vận động tranh thủ binh sĩ, địch chưa nắm chắc được tình hình nên do dự, đành phải ngưng cuộc tiến công rút về căn cứ.
Ở khu vực phía Tây Hòn Hèo, lực lượng vũ trang ta giải phóng thôn Tiên Du, đột nhập các thôn Hội Điền, Hội Phú, Bằng Phước (xã Ninh Phú), Mỹ Lệ (xã Ninh Đa), cải trang làm lính bảo an đột nhập diệt gần hết trung đội nghĩa quân xã Ninh Giang tại Gò Chùa. Địch dùng đại đội bảo an ứng cứu tiến vào Tiên Du, bị ta đánh thiệt hại nặng tại Bến Giá.
Cùng lúc, bộ đội địa phương Nam Ninh Hòa với 17 tay súng đánh chiếm Tân Hưng, Trường Lộc giải phóng xã Ninh Hưng, tạo một mảng lớn thế tranh chấp ở các xã Ninh Quang, Ninh Bình, Ninh Lộc.
Tại huyện Vạn Ninh, lực lượng ta tổ chức đánh địch và trụ lại hỗ trợ quần chúng giành quyền làm chủ các thôn Xuân Vinh, Hà Già (Vạn Hưng) Hiền Lương, Mỹ Đồng (Vạn Lương), Tân Dân, Đại Lãnh, rút được nhiều cán bộ kháng chiến cũ và thanh niên bổ sung cho lực lượng huyện.
Như vậy, chỉ trong vòng 3 ngày các lực lượng vũ trang ta hoạt động trên địa bàn 2 huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy đồng khởi giải phóng một vùng rộng với trên 1 vạn dân, nối liền căn cứ Đá Bàn vào sâu vùng địch kiểm soát hàng chục ki-lô-mét.
Địch không chịu thất bại, liên tục phản kích hòng lấn chiếm lại vùng đã mất. Ngày 27 tháng 11 năm 1964, địch huy động 1 tiểu đoàn bảo an, 5 tổng đoàn dân vệ do tên chi khu trưởng Chi khu Ninh Hòa trực tiếp chỉ huy, chia làm 2 cánh luồn sâu vào thôn Tiên Du với ý đồ bao vây, tiêu diệt lực lượng vũ trang ta đang có mặt ở đó. Khoảng 5 giờ sáng, chúng đồng loạt nổ súng, ào ạt tiến vào làng. Tiểu đoàn 30 đã chuẩn bị sẵn phương án đánh địch phản kích, chiếm lĩnh trước địa hình. Một bộ phận đóng ở Hòn Mỡ vận động đánh tạt sườn vào sau lưng địch, chúng hoảng hốt bỏ chạy để lại 25 xác chết. Tiểu đoàn 30 trụ lại ở 2 thôn Bằng Phước, Mỹ Lệ, đêm 6 tháng 12 năm 1964, đánh lực lượng dân vệ từ Ninh Hòa kéo đến, diệt và làm bị thương 25 tên buộc chúng tháo chạy trở lại.
Ngày 8 tháng 12 năm 1964, 4 máy bay trực thăng HU.IA đổ đại đội biệt kích Mỹ xuống chân Hòn Hèo, hòng vây đánh lực lượng ta đang đóng trong làng. Máy bay địch phối hợp với lính biệt kích bắn xối xả vào các thôn Tiên Du, Hội Bình, Hội Phú, Hà Liên để uy hiếp tinh thần dân chúng. Ta chủ động chặn đánh trước, đẩy địch vào thế bị động, phải tháo chạy qua sông. Tên chỉ huy biệt kích bị thương nặng và chết.
Đại đội I tiểu đoàn 30, cùng với đại đội 83 trụ lại ở thôn Lạc Hòa (xã Ninh An), ngày 17 tháng 12 năm 1964 đánh đại đội biệt kích phản kích vào vùng giải phóng xã Ninh An. Địch bị đánh bật trở ra, bỏ xác tại trận 17 tên.
Nam Khánh Hòa là trọng điểm 2 của đợt đồng khởi do đồng chí Lưu Văn Trọng, Phó bí thư Tỉnh ủy phụ trách chung, lấy xã Diên Sơn, Diên Điền (Diên Khánh) làm trọng điểm, vì 2 xã này bên trong có chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên và phong trào quần chúng mạnh.
Thực hiện kế hoạch đồng khởi, tối ngày 6-11-1964 ta đưa lực lượng C2 của tỉnh và tiểu đội vũ trang của huyện ém quân trong nhà dân, chốt giữ quanh sân vận động Mã Cây Ké (thôn Đại Điền Nam, xã Diên Sơn). Ở Diên Điền ta đưa tiểu đội vũ trang của huyện chia làm 2 tổ chốt giữ ở 2 thôn phối hợp với du kích đánh địch, diệt ác ôn tại chỗ, không cho chúng tập trung về Diên Sơn. Chiều ngày 7-11, du kích xã Diên Sơn bắt sống và giết tên Quang Lác - một CIA nguy hiểm phụ trách an ninh xã. 5 giờ chiều ngày 7-11, một trung đội nghĩa quân của địch kéo từ ấp Đông lên ấp Bắc Đại Điền Nam và tập hợp tại nhà thờ họ Bùi, cách sân vận động 200 mét. Do nắm tình hình địch bị động, ta xuất quân đánh địch không theo kế hoạch đã dự kiến. Bị đánh bất ngờ, địch bắn trả điên loạn, tháo chạy về ấp Nam và dùng bộ đàm xin tiếp viện. Ta và địch quần trụ đánh nhau quyết liệt đến 12 giờ khuya. Lúc này ta không nắm được tình hình, nên sau đó lực lượng C2 đã rút ra núi Hòn Ngang (Diên Sơn), lực lượng huyện rút lên Hòn Chùa.
Ở Diên Điền, chiều 7-11 cánh Đại Điền Đông do đồng chí Nguyễn Văn Nghiệp phụ trách tổ chức đánh địch vào trụ sở thôn, thu một số vũ khí. Tối ngày 7-11 lực lượng vũ trang của huyện, chi bộ, đội công tác ở 2 xã Diên Sơn, Diên Điền vẫn bám lại bên trong, các chốt vẫn giữ nguyên vị trí, chuẩn bị lực lượng đấu tranh chính trị, binh vận. Do trận đánh ở Diên Sơn không dứt điểm chiến trường nên tối ngày 7-11 nhân dân 2 xã chưa có điều kiện nổi dậy giành chính quyền và du kích Diên Điền không có cơ hội bắt một số tên tề ngụy ác ôn.
Sáng sớm ngày 8-11-1964, quân địch từ quận lỵ tiến sang Đại Điền. Khi địch tiến vào Diên Sơn, đội vũ trang công tác do đồng chí Trần Quốc Khánh phụ trách cùng chi bộ, cán bộ cốt cán vận động nhân dân tổ chức thành các tổ đấu tranh chính trị, binh vận. Trước lời lẽ đấu tranh khôn khéo, có lý có tình, buộc địch phải cho ta chôn cất những chiến sĩ đã hy sinh. Trên 200 người đã có mặt trong buổi lễ mai táng trọng thể và vô cùng cảm động. Đây là một thắng lợi to lớn có ý nghĩa về mặt chính trị, không những ổn định lại tinh thần của quần chúng sau trận đánh chiều ngày 7-11 mà còn xây dựng được lực lượng đấu tranh chính trị, nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu của cán bộ và nhân dân. Ở Diên Điền địch đưa quân tiến vào ấp Đông, thôn Đại Điền Trung bị lực lượng du kích và tổ vũ trang của huyện chặn đánh, diệt một số tên. Bên ta, đồng chí Thành bị thương. Đến trưa ngày 8-11 đại bộ phận địch ở Đại Điền rút về quận lỵ.
Trước tình hình đó, các đồng chí đội công tác, cán bộ ở Đại Điền Nam, Đại Điền Trung, cử người đem thư ra ngoài núi gặp Ban chỉ huy đồng khởi, các đơn vị bộ đội báo cáo tình hình và yêu cầu đưa ngay lực lượng vũ trang vào. Trưa ngày 8-11, Ban chỉ đạo đồng khởi của huyện đã họp. Đồng chí Lưu Văn Trọng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Tiến Thanh, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy cùng tham dự và chỉ đạo. Cuộc họp đã nhận định: Tuy trận đánh mở màn không gọn, ta hy sinh một số đồng chí, nhưng địch bị đánh bất ngờ giữa ban ngày, ta giết tên trung đội trưởng nghĩa quân Nguyễn Nghiêng nên chúng đã hoang mang bỏ chạy. Đồng bào và cơ sở ta rất tốt, các đội công tác, lực lượng vũ trang của huyện vẫn bám trụ địa bàn sẵn sàng trong tư thế nổi dậy. Đây là thời cơ hết sức thuận lợi để phát động toàn dân vùng lên làm chủ. Nếu để chậm, địch sẽ củng cố, tập trung lực lượng đánh ta, cuộc đồng khởi của ta sẽ gặp nhiều khó khăn có khi hy sinh, tổn thất nhiều. Cuộc họp quyết định lực lượng vũ trang phải cấp tốc vào làng để hỗ trợ quần chúng nổi dậy.
Chiều ngày 8-11, lực lượng vũ trang của tỉnh gồm đơn vị Sông lô, C2 tiến vào Diên Sơn, Diên Điền hỗ trợ cho du kích xã cùng nhân dân nổi dậy đánh địch. Quần chúng dùng trống, mõ đánh vang dậy đất trời, uy hiếp tinh thần địch. Trước khí thế và sức mạnh tấn công như vũ bão của ta, địch đã bỏ chạy khỏi Đại Điền. Mặc dù xóm thôn đang gặp lụt lớn, nhưng tất cả quần chúng đều lao vào cuộc chiến đấu với khí thế mạnh mẽ, các nhiệm vụ cấp bách như vây bắt tề ngụy, phá ấp chiến lược được tiến hành nhanh chóng.
Tối ngày 8-11-1964, nhân dân Diên Sơn tập trung về sân vận động Mã Cây Ké dự lễ ra mắt chính quyền cách mạng lâm thời do đồng chí Trần Đức làm chủ tịch, Nguyễn Thị Sướt, Lê Thị Nữ phó chủ tịch. Ở Diên Điền bà con tập trung về đình Đại Điền Trung, nơi ra mắt Uỷ ban Cách mạng lâm thời do đồng chí Nguyễn Gấm làm chủ tịch, Hồ Thị Xa phó chủ tịch. Hàng ngàn người dự lễ mít tinh đã nghe đồng chí chủ tịch ủy ban tuyên bố xóa bỏ chính quyền Mỹ-ngụy, thành lập chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng kêu gọi đồng bào nhanh chóng ổn định tình hình, đẩy mạnh sản xuất, phá hàng rào "ấp chiến lược", nâng cao cảnh giác. Tổ chức vận động thanh niên gia nhập dân quân du kích, đào công sự, hầm bí mật, chuẩn bị chiến đấu giữ vững vùng giải phóng.
Qua 1 ngày đêm chiến đấu bằng ý chí tiến công liên tục của quần chúng có lực lượng vũ trang hỗ trợ, ta đã giải phóng toàn bộ Tứ thôn Đại Điền sau 10 năm (1954-1964) địch xây dựng hệ thống kìm kẹp, mở đầu cho phong trào đồng khởi của huyện Diên Khánh11.
Do Đại Điền có vị trí rất quan trọng, nằm sát các cơ quan đầu não của địch, nên mất Đại Điền chúng vô cùng tức tối và phản ứng rất nhanh, liền tập trung lực lượng đánh chiếm lại. Ngày 9-11-1964, địch đưa 4 trung đội biệt kích từ cầu Hà Dừa qua sông Cái định chiếm núi Sơn Lâm, nhà thờ Hoa Vông làm bàn đạp tiến công Đại Điền. Được cơ sở báo tin, bộ đội đã triển khai đánh địch với chiến thuật: phòng ngự kết hợp với vận động tiến công, ta đã diệt một số tên, phần lớn địch hoảng sợ tháo chạy sang sông. Với tác động của chiến thắng Đại Điền và trận đánh ngày 9-11, bọn địch ở Diên Lâm hoang mang tột độ. Nhân cơ hội đó, ta đưa lực lượng lên hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy làm chủ nối liền với vùng giải phóng Đại Điền. Diên Lâm trở thành địa bàn đứng chân của lực lượng vũ trang để tổ chức các cuộc tấn công mở phong trào ở bờ Nam sông Cái.
Bên cạnh việc liên tục đưa quân càn quét, địch thường xuyên bắn pháo vào làng, đồng ruộng, không cho nhân dân ở vùng giải phóng yên ổn sản xuất, gây thiệt hại nhiều nhà cửa, hoa màu, trâu bò và nhiều người bị chết. Để bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng, ta chỉ đạo phải liên tục tấn công địch bằng 3 mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận. Chỉ sau 3 ngày đồng khởi, chi bộ, đội công tác tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị sang trung tâm quận lỵ, yêu cầu địch không được bắn pháo vào làng. Có ngày nhân dân Diên Sơn tổ chức 3 cuộc đấu tranh làm náo loạn trung tâm quận lỵ, buộc địch phải thả chị em bị chúng bắt giam các lần trước. Sau đó địch vẫn tiếp tục bắn phá, nhân dân Diên Sơn, Diên Điền, Diên Lâm lại tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị, binh vận, kết hợp với chị em ở chợ Thành, Diên Lạc v.v... Bà con mang cả xác người, trâu bò, cây chuối bị trúng đạn sang tận quận lỵ. Nhiều cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi, buộc địch phải bồi thường, ta đem lương thực về ủng hộ kháng chiến. Bà con Diên Lâm đòi địch cho về quê làm ăn, nhân đó mang lương thực, thực phẩm tiếp tế cho cách mạng. Qua đấu tranh kiên trì của ta, địch từng bước nhượng bộ, từ chỗ bắn pháo cấp tập cả ngày lẫn đêm vào rừng, vào đồng ruộng, vào làng xóm, đến chỗ chỉ bắn pháo vào rừng và cuối cùng chỉ bắn trong những giờ qui định.
Ngày 24-12-1964, ta phát hiện có 1 đại đội nghĩa quân do tên thiếu úy Võ Văn Mười chỉ huy đóng quân tại Lễ Thạnh (Diên Thọ). Ta đưa đơn vị Sông Lô và C2 phối hợp với lực lượng của huyện đánh địch với chiến thuật bao vây tập kích. Khi trận đánh diễn ra, một bộ phận của đại đội 548 (lực lượng vũ trang người dân tộc) từ Mỹ Lộc (Diên Lộc) kéo ra tham gia đánh chặn viện. Trận đánh diễn ra đúng kế hoạch, ta tiêu diệt một số tên, bắt sống 13 tên trong đó có tên thiếu úy, số còn lại tháo chạy tán loạn. Phía ta hy sinh 2 đồng chí. Sau đó ta đánh vào khu tập trung An Định. Chiến thắng Lễ Thạnh đã tác động mạnh đến tinh thần chiến đấu của địch, bọn chúng không dám đem quân lên đóng ở Diên Thọ. Phía Tây của xã Diên Thọ, nhân dân đã nổi dậy làm chủ nối liền với vùng giải phóng Cẩm Sơn.
Sau trận này, ngụy quân, ngụy quyền bị rúng động mạnh, bỏ trống một mảng lớn từ Phước Lương, Lễ Thạnh, An Định, Phước Tuy, Phò Thiện, Suối Tre, Mỹ Lộc, hình thành vùng giải phóng liên hoàn phía Nam huyện Diên Khánh.
Huyện Vĩnh Xương là bàn đạp của thị xã Nha Trang, tuy chưa có xã giải phóng, nhưng phong trào lên khá ở các xã Diên An, Diên Toàn12Vĩnh Thái, Vĩnh Trung, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh. Các lực lượng cách mạng làm chủ ban đêm các thôn Phú Vinh, Xuân Lạc, Phú Nông, An Ninh, Võ Kiện, Phú Ân... Ban ngày đội võ trang công tác hoạt động bí mật gây dựng cơ sở, ban đêm mở mít tinh công khai. Địch không dám đến, cũng không dám bắn súng từ xa. Ta đã bắt trên 200 tên tề điệp đưa đi học tập cải tạo rồi thả về. Một trung đội nghĩa quân của địch bị bộ đội huyện đánh tan tại Diên An, ta làm chủ mấy ngày liền ngày trên trục quốc lộ Nha Trang - Thành. Ách kèm kẹp của địch bị phá vỡ một phần quan trọng. Sự đi lại làm ăn của nhân dân được dễ dàng hơn.
Cuộc đồng khởi ở các vùng nông thôn trong tỉnh nhất là ở 2 huyện Diên Khánh, Vĩnh Xương đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị xã Nha Trang. Để bảo vệ cho cơ quan đầu não ở Nha Trang, địch đã huy động lực lượng quân sự tiểu khu Khánh Hòa cùng với lực lượng các trường sĩ quan hải quân, không quân, hạ sĩ quan Đồng Đế liên tiếp càn quét đánh phá các vùng giải phóng ở Nam Khánh. Ngoài ra, địch còn cả một hệ thống cảnh sát và điệp ngầm dày đặc, vì vậy cán bộ ở ngoài về hoạt động trong thị xã rất khó khăn. Có lần cán bộ hoạt động bị lộ, địch huy động đến 2 trung đội biệt kích vây 1 nhà cơ sở, đồng chí Trần Lê Quang, đội trưởng đội công tác kiên quyết chống cự đến viên đạn cuối cùng, hy sinh tại Xóm Gò, Phước Hải.
Nhưng rồi cơ sở lại được móc nối xây dựng. Đặc biệt là trong lúc khó khăn nhất, bên trong thị xã phong trào không bao giờ tắt.
Thị ủy Nha Trang dùng căn cứ Diên Điền (huyện Diên Khánh) mở nhiều lớp huấn luyện cho cơ sở, cho thanh niên, học sinh, trí thức, tiểu thương rút từ nội thị ra. Trong thị xã tuy chưa có ban cán sự đảng, nhưng đã hình thành được ban cán sự quần chúng hoạt động năng nổ, bắt mối được với một số cơ sở trong sân bay, bến cảng, Chụt, một số công chức trong bộ máy ngụy quyền, một số binh sĩ và cảnh sát địch. Những cơ sở này đã cung cấp cho lãnh đạo những tin tức tình báo có giá trị.
Đầu năm 1965, phong trào đấu tranh công khai hợp pháp ở thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam lên mạnh. Tại thị xã Nha Trang, ngày 8 tháng Giêng năm 1965 gần 1000 nam, nữ học sinh các trường Võ Tánh (nay là trung học Lý Tự Trọng), Lê Qúy Đôn, Trường Nữ trung học Huyền Trân (nay là trường PTTH cấp 2 Thái Nguyên) đã bãi khóa, xuống đường biểu tình phản đối chính phủ Trần Văn Hương đưa xử án giáo sư Lê Quang Vịnh và học sinh yêu nước Sài Gòn. Đoàn biểu tình đã qua các đường phố lớn của Nha Trang: Độc Lập (nay là Thống Nhất), Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hàn Thuyên và trương các biểu ngữ:
"- Phản đối chính phủ Trần Văn Hương đem xử giáo sư Lê Quang Vịnh và 20 học sinh vô tội ở Sài Gòn".
"- Phản đối hành động đàn áp dã man của chính phủ Trần Văn Hương".
"- Phản đối âm mưu chia rẽ dân tộc của chính phủ Trần Văn Hương".
"- Yêu cầu thủ tướng Trần Văn Hương rút khỏi chính quyền".
Đoàn biểu tình tập trung tại "công trường Cộng hòa"13 bao vây nhà thông tin, dùng loa phóng thanh đọc Tuyên ngôn, bày tỏ lập trường tranh đấu của nhân dân.
Trước áp lực đấu tranh của thanh niên, học sinh, tên trung tá tỉnh trưởng đành xoa dịu, hứa hẹn sẽ chuyển những yêu cầu của đoàn biểu tình lên cấp trên.
Đại diện đoàn biểu tình tuyên bố sẽ bãi khóa vô hạn định đến khi nào mục đích đấu tranh của họ thành đạt mới thôi. Đến tối lại có thêm nhiều truyền đơn tung ra khắp nơi, kêu gọi nhân dân thị xã đình công, bãi thị hưởng ứng cuộc đấu tranh. Địch phản ứng mạnh, quyết dập tắt cuộc đấu tranh. Ngày 9 tháng Giêng năm 1965, cảnh sát vũ trang dùng dùi cui, lựu đạn cay đàn áp dã man anh em học sinh tay không, bắt đi 20 người. Như lửa đổ thêm dầu, vào lúc 10 giờ cùng ngày, 10 ni cô và 150 nam, nữ phật tử tuyệt thực tại công trường Cộng hòa với khẩu hiệu: "Phản đối hành động phản dân chủ của chính quyền. Phải trả tự do cho những học sinh bị bắt". Ngày 26 tháng Giêng năm 1965, phật tử Đào Thị Yến Phi, mới 17 tuổi tự thiêu trước Tòa hành chánh tỉnh Khánh Hòa. Trước khi chết cô để lại một bức tâm thư cực lực phản đối đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền Sài Gòn bán nước. Cái chết của Yến Phi làm tăng thêm lòng căm thù sôi sục trong các giới phật tử, học sinh và đông đảo quần chúng thị xã.
Những tin thắng lợi vang dội từ các chiến trường miền Nam đổ về. Tháng 12 năm 1964 ta thắng lớn ở Bình Giã (tỉnh Bà Rịa-Nam bộ), tháng 5 năm 1965 thắng lớn ở Ba Gia (tỉnh Quảng Ngãi - Khu V). Những trận đánh giành thắng lợi lớn của ta trên chiến trường chứng tỏ sự lớn mạnh và trưởng thành của lực lượng vũ trang giải phóng. Quân ngụy không còn đủ sức làm nòng cốt trong "chiến tranh đặc biệt". Tương quan lực lượng ở chiến trường miền Nam đã có sự thay đổi, báo hiệu sự phá sản của chiến lược "chiến tranh đặc biệt".
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA LẦN THỨ TƯ
Thắng lợi của nhân dân miền Nam trong việc đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ không thể tách rời sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngoài đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ xuyên dọc Trường Sơn, hậu phương lớn miền Bắc còn mở đường Hồ Chí Minh trên biển, đưa tàu chở vũ khí chi viện cho miền Nam ruột thịt. Tàu trọng tải 100 tấn đã 4 lần cập cảng Vũng Rô. Những đoàn dân công từ căn cứ địa miền Tây Khánh Hòa gồm hầu hết là người dân tộc, đã lên đường ra Phú Yên tiếp nhận vũ khí được chuyên chở, cất dấu trong vòng lửa đạn của địch.
Trong không khí thắng lợi chung, tháng 2 năm 1965, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 4 được triệu tập. Đại hội được tiến hành tại Suối Bún (Hòn Dữ) huyện Vĩnh Khánh. Trên 100 đại biểu của các huyện, thị và ban ngành trong tỉnh đã về dự. Tham dự đại hội còn có đại biểu của tiểu đoàn 30 Phân khu Nam. Đồng chí Mai Dương thay mặt cho Liên Tỉnh ủy 3 tham gia chỉ đạo đại hội.
Đại hội được triệu tập vào dịp Tết cổ truyền. Ngoài những thực phẩm đã được chuẩn bị ở căn cứ còn có quà của nhiều địa phương gửi tới. Đây là đại hội mừng chiến thắng, đón xuân, nhưng cũng là đại hội nhớ tiếc các đồng chí, đồng bào đã ngã xuống trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong ngày 27 Tết, các đồng chí Hà Huy An (tức Việt Thắng), ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy Diên Khánh, đồng chí Trần Minh Tâm, Huyện đội phó Diên Khánh và 10 đồng chí khác bị địch tập kích hy sinh ngay tại Đại Điền Nam, vùng ta mới giải phóng. Địch kéo xác các đồng chí ra phơi nắng ở đầu cầu Thành (Diên Khánh).
Đầu cầu Thành trước đó và sau này là nơi địch tập trung phơi xác các đồng chí và đồng bào bị chúng sát hại cốt làm nhụt tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân. Đầu cầu Thành trở thành tấm bia ghi tội ác của Mỹ-ngụy.
Đại hội của Đảng đã nhận định tình hình, xác định thắng lợi giành được là đã giải phóng một số vùng nông thôn đồng bằng cả Nam, Bắc Khánh. Nhân dân giữ vững quyền làm chủ, chính quyền cách mạng bước đầu thực hiện một số chính sách đưa lại quyền lợi cho dân như chính sách ruộng đất, chính sách khoan dung đối với binh sĩ và nhân viên ngụy quyền.
Đại hội quyết định:
- Củng cố vùng giải phóng và khẩn trương mở ra phía trước. Phát triển nhanh cơ sở các vùng yếu, tạo ra nhiều vùng tranh chấp để mở phong trào liên hoàn, giải phóng từng mảng vùng nông thôn sát đô thị và các đường giao thông chiến lược.
- Ở miền núi khẩn trương bố phòng đẩy mạnh sản xuất, lo muối và vải cho dân.
- Tăng cường cán bộ cho thị xã, thị trấn, tích cực vận động thanh niên nhập ngũ, xây dựng nhanh lực lượng vũ trang huyện, tỉnh. Tăng cường chỉ đạo của Đảng, tiến hành đại hội ở cấp huyện.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 13 đồng chí, trong đó có đồng chí Pi Năng Xà A (Bảy Xà A) là người dân tộc Raglai. Đồng chí Tô Văn Ơn làm Bí thư Tỉnh ủy và Lưu Văn Trọng làm Phó Bí thư.
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRONG NĂM 1965
Nghị quyết của Đại hội được thực hiện trong điều kiện cuộc đấu tranh giữa ta và địch đang diễn ra ở thế giằng co quyết liệt. Địch liên tiếp phản kích, lấn chiếm vùng giải phóng, xúc dân đi nơi khác. Ta chống địch phản kích, chống lấn chiếm, quyết giữ đất, giữ dân.
Các vùng Ngân Hà, Bá Hà, Thủy Đầm, Phú Thọ thuộc xã Ninh Diêm đã được giải phóng trong đợt đồng khởi cuối năm 1964, bị địch tái chiếm nay phải giải phóng lại. Tháng 5 năm 1965, hàng ngàn đồng bào tập hợp tại thôn Phú Thọ trương biểu ngữ kéo lên quận Ninh Hòa đấu tranh đòi địch không được ném bom, bắn pháo vào làng, không được càn quét lùng sục bắn phá giết hại dân lành. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, quận trưởng Ninh Hòa phải nhận yêu sách của đồng bào. Sự kiểm soát của địch được nới lỏng. Cơ sở ta đã tổ chức được nhiều chuyến xe chở muối từ Ninh Diêm lên căn cứ Đá Bàn. Đồng bào miền núi từ Khánh Sơn, Vĩnh Sơn, Vĩnh Khánh đã xuống tận Hòn Khói để mang muối về.
Ở phía Tây huyện Ninh Hòa, nhân dân đã nổi dậy làm chủ các thôn phía bắc xã Ninh Đông. Nhân dân và du kích rào làng chiến đấu, kiểm soát chặt đường quốc lộ số 1 từ thôn Hà Thanh (Ninh Hòa) đến thôn Xuân Tự (Vạn Ninh), phong tỏa sự tiếp tế của địch đến một số địa phương trong tỉnh.
Cơ quan Huyện ủy Bắc Ninh Hòa - Vạn Ninh đóng sát cửa Pô căn cứ Đá Bàn, rút được thanh niên, mở các lớp huấn luyện cho số anh em mới thoát ly. Một số đưa về bổ sung cho tỉnh, còn phần lớn tăng cường phát triển lực lượng vũ trang địa phương. Đầu năm 1965, bộ đội địa phương Ninh Hòa đủ quân số biên chế thành một đại đội. Đơn vị trưởng thành trong thực tiễn chiến đấu, đánh giặc chống càn tốt. Du kích cũng đánh giỏi. Có trận càn, lực lượng một tiểu đoàn địch có phi pháo yểm trợ, không vào nổi trung tâm các thôn Lạc Hòa, Lạc Ninh (Ninh Thọ).
Ở Vạn Ninh, ta giải phóng các thôn Xuân Vinh, Hà Già thuộc xã Vạn Hưng, thôn Mỹ Đồng thuộc xã Vạn Lương. Tháng 5 năm 1965, một đại đội bộ đội địa phương hoạt động tại 3 xã vùng Tu Bông bám trụ kiên cường, đẩy toàn bộ lực lượng dân vệ và tề xã chạy ra đảo. Bộ đội ta làm chủ cả vùng trong 3 ngày. Nhưng do lực lượng tại chỗ không có, cơ sở nòng cốt còn quá ít, nên chưa phát động được quần chúng giành quyền làm chủ. Sau mấy ngày bỏ chạy, địch đã hoàn hồn, mở cuộc hành quân chiếm lại Tu Bông. Riêng thôn Đại Lãnh ta làm chủ nhiều ngày, rút thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đội công tác.
Ở Nam Ninh Hòa, ta quản lý các thôn Trường Lộc, Tân Hưng thuộc xã Ninh Hưng, Phú Hòa, Vạn Hữu xã Ninh Quang. Nhân dân thôn Tam Ích xã Ninh Lộc được 1 tiểu đội du kích hỗ trợ, đã tự mình nổi dậy thành lập Uỷ ban tự quản thôn. Ở thôn Phú Hữu thuộc xã Ninh Ích, nhân dân cũng đã đứng lên giành quyền làm chủ. Huyện ủy chủ trương tăng cường cán bộ vào hoạt động tại thị trấn. Tuy vậy, trên địa bàn Nam Ninh Hòa, nhân dân mới thực hiện giải phóng từng lõm, tạo thế lỏng kèm ở một số xã, khí thế của quần chúng chưa mạnh.
Tiểu đoàn 30 sau khi hoạt động ở Bắc Khánh đã chuyển vào hoạt động trên địa bàn huyện Diên Khánh, phối hợp với các đơn vị đại đội 2, đại đội 548, một trung đội của Nha Trang và một trung đội của Diên Khánh đánh bót Bà Lá (5-3-1965), chống càn quét và trụ lại đánh địch ở khu vực Cầu Thành. Có lực lượng vũ trang yểm trợ, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở các xã Diên Phước, Diên Thọ, Diên Lộc, tạo thế tranh chấp tại các xã Diên Lạc, Diên Hòa, Diên Bình; phá khu tập trung đồng bào các dân tộc miền núi ở An Định mà địch đã lập từ năm 1960, nhưng bọn địch đã uy hiếp, đe dọa và mua chuộc chở hết 2.400 đồng bào đã ở khu tập trung này xuống vùng sâu.
Đúng như dự kiến của Trung ương Đảng, đế quốc Mỹ đã leo thang gây ra "chiến tranh cục bộ" hòng cứu nguy cho ngụy quân, ngụy quyền đang trên đà sụp đổ. Chỉ 3 tháng sau khi các đơn vị đầu tiên của quân Mỹ đổ bộ lên cảng Đà Nẵng (tháng 3 năm 1965), ngày 10 tháng 6 năm 1965, lữ đoàn 106 công binh Mỹ gồm trên 4.000 lính đổ lên Cam Ranh, Nha Trang, mở rộng cảng và xây dựng căn cứ quân sự Mỹ. Địch dùng máy bay và pháo lớn từ hạm đội 7 ngoài khơi, ném bom, bắn phá ác liệt các vùng giải phóng và những vùng nghi có cơ quan và lực lượng ta trú đóng. Hàng ngày, 5-7 lượt máy bay Mỹ quầng lượn, bắn phá huyện Diên Khánh từ sớm cho đến chiều tối, hủy diệt toàn bộ nhà cửa vườn tược thôn Khánh Xuân xã Diên Lâm. Tại cánh đồng thôn Mỹ Đồng (Vạn Ninh) một vùng còn trong vòng kiểm soát của chúng, máy bay Mỹ đã dội bom giết chết một lúc 300 con trâu.
Nhưng trọng điểm bắn phá của Mỹ trong thời gian này là vùng hậu phương trực tiếp của Nha Trang. Sau những lần bắn phá ác liệt toàn huyện Diên Khánh, tháng 8 năm 1965, một số đơn vị quân Mỹ càn vào Đại Điền, ném bom dữ dội căn cứ Đá Đen. Mặc dù vậy phong trào cách mạng trong tỉnh vẫn tiếp tục phát triển. Những cuộc đấu tranh chính trị trực diện chống địch ném bom, bắn pháo, chống càn bao gồm hàng ngàn người diễn ra liên tục ở nhiều nơi, nhất là trong 2 huyện Ninh Hòa, Diên Khánh.
Trong các ngày 30 tháng 4, 17 tháng 5 và 30 tháng 6 năm 1965 đã diễn ra 3 cuộc đi chợ nhồi14 có trên 4.000 lượt người tham gia, 2 cuộc đấu tranh trực diện vào cơ quan ngụy quyền quận trong các ngày 24 tháng 5 và 22 tháng 6 có trên 2000 lượt người tham gia.
Ngày 25 tháng 6, trên 20 đồng bào ở Đại Điền kéo đến quận đấu tranh vì bọn sĩ quan ngụy đã bắn chết 1 lính ngụy đào ngũ. Trong những ngày 27, 28 tháng 6, đồng bào các thôn Mỹ Đồng, Quảng Phước thuộc huyện Vạn Ninh khiêng cả xác trâu bị địch bắn chết đến quận đòi bồi thường. Đồng bào Xuân Vinh cầm mẻ bom Mỹ làm bằng cớ kéo tới quận Vạn Ninh đấu tranh. Trên 50 đồng bào Khánh Xuân (xã Diên Lâm) khiêng xác một em bé bị địch bắn chết xuống quận Diên Khánh đấu tranh. 200 đồng bào lao động nghề cá ở Xóm Cồn (thị xã Nha Trang) kéo đến Tỉnh đường đòi giải quyết đời sống. 50 đồng bào thôn Tam Ích, xã Ninh Lộc kéo đến gặp quận trưởng đòi đình chỉ việc bắn pháo vào ngã ba Tam Ích và các điểm Bến Cá để dân đi lại làm ăn. Địch buộc phải chấp nhận yêu sách của bà con.
Đêm 21 tháng 7 năm 1965, pháo binh của tỉnh gồm các khẩu đội ĐKZ75, ĐKZ57, cối 120 ly và cối 82 ly từ căn cứ Đồng Bò bắn cấp tập vào sân bay Nha Trang, đốt cháy và làm hỏng nhiều máy bay địch, một số đoạn đường băng bị cày xới, nhiều lính Mỹ chết. Các đại đội 1, 2 và 5 thuộc tiểu đoàn 30 áp sát, pháo kích quận lỵ Diên Khánh, phá hỏng nhà máy đèn, 1 pháo 105 ly diệt và làm bị thương hàng chục lính bảo an.
Cùng đêm, đội đặc công của Khu do đồng chí Nam Sơn Hổ chỉ huy tập kích trường sĩ quan Hải quân ngụy tại Chụt (Vĩnh Nguyên), diệt và làm bị thương hàng chục học viên sĩ quan.
Đây là thời gian đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang diễn ra xen kẽ, cài vào nhau và hỗ trợ cho nhau rất có kết quả.
Ngày 12 tháng 8 năm 1965, lần đầu tiên trong tỉnh, trên 800 đồng bào và gia đình binh sĩ từ các nơi kéo vào thị xã Nha Trang, tới Tỉnh đường đòi chồng, con, em, vào thẳng Quân y viện tìm thân nhân bị thương, kêu gọi bỏ hàng ngũ giặc trở về với gia đình.
Tháng 8 năm 1965, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tiến hành tại suối Bạch Đằng (Diên Khánh). Theo quyết định của Khu ủy, đồng chí Mai Dương về làm Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa, 2 đồng chí Tô Văn Ơn và Lưu Văn Trọng làm Phó Bí thư. Hội nghị nghiên cứu Nghị quyết lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3 năm 1965). Tinh thần của Nghị quyết này là tập trung lực lượng đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ, đồng thời đề phòng khả năng địch leo thang gây "chiến tranh cục bộ". Trước mắt Khánh Hòa phải vươn lên thực hiện nhiệm vụ củng cố và mở rộng vùng làm chủ, giải phóng 15 vạn trong tổng số 30 vạn dân toàn tỉnh, đồng thời tăng cường công tác đô thị.
Trong khi ấy ở hai địa bàn đô thị quan trọng là Nha Trang và Cam Ranh việc chỉ đạo đang gặp khó khăn. Vào giữa năm 1965, do ta sơ hở để địch chui vào nội bộ, nên toàn bộ Ban cán sự nội thành Nha Trang và chi đoàn thanh niên bị bắt. Cơ sở trong thị xã hầu như tê liệt. Ở Cam Ranh vào đầu năm 1965, các cán bộ chủ chốt trong Ban cán sự cũng hy sinh do điệp chui vào cơ sở ta phá từ bên trong.
Vì vậy, tháng 10-1965 Tỉnh ủy điều đồng chí Lưu Văn Trọng về làm Bí thư Thị ủy Nha Trang, đồng thời tăng cường cán bộ hoạt động trong nội thị.
Cũng trong tháng 10-1965, Tỉnh ủy ra quyết định thành lập Thị ủy Cam Ranh do đồng chí Bùi Thanh Vân làm Bí thư. Tỉnh cũng điều 2 đại đội đặc công 91 và 93 cho huyện Cam Ranh; và sau đó điều đại đội 92 đặc công nước cho Nha Trang và một số lực lượng để xây dựng bộ đội địa phương các huyện.
* *
*
Những chiến thắng liên tiếp của quân và dân Khánh Hòa trong những năm qua đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền, quốc sách ấp chiến lược và đô thị lung lay. Đây là những chỗ dựa chủ yếu của Mỹ-ngụy trong "chiến tranh đặc biệt". Tinh thần của binh sĩ và nhân viên ngụy quyền sa sút. Những nơi ta hoạt động mạnh ở Bắc Khánh và Nam Khánh địch ngày càng co lại. Nhiều đơn vị quân địa phương bị tan rã. Số còn lại mang tâm trạng ở lính qua ngày kiếm lương, gặp ta thì tránh, lánh. Trong 19 thôn Bắc Diên Khánh và 21 thôn Nam Diên Khánh có đêm bọn địch chỉ còn dám đóng lại trong một vài thôn. Tại vùng nông thôn tạm bị chiếm ở Bắc và Nam Ninh Hòa ta làm chủ ban đêm. Binh lính và nhân viên ngụy quyền ban đêm kéo đi ngủ tại quận lỵ 8 giờ sáng hôm sau mới dám về.
Hệ thống "ấp chiến lược" bị ta phá vỡ từng mảng ở Vạn Ninh; Nam, Bắc Ninh Hòa; Nam, Bắc Diên Khánh; Vĩnh Xương. Số còn lại đang rệu rã, không còn tác dụng.
Tình hình đô thị, do phong trào nông thôn mở rộng, vùng địch kiểm soát ngày càng thu hẹp, đường giao thông chiến lược bị cắt đứt, đời sống kinh tế khó khăn, phong trào đấu tranh của các tầng lớp quần chúng với hàng ngàn người tham gia có cả thương phế binh ngụy, hình thành một mặt trận chống Mỹ-ngụy ngay tại "hậu phương an toàn" của chúng.
Sau gần 1 năm tiến hành đồng khởi, phong trào đấu tranh của quân và dân Khánh Hòa có sự thay đổi lớn. Vùng giải phóng bao gồm 46 thôn với trên 37.500 dân. Vùng tranh chấp có 34 thôn với 32.400 dân. Trong các thôn xã giải phóng đã thành lập chính quyền cách mạng, phát triển du kích, xây dựng làng chiến đấu. Một số làng chiến đấu đã có tác dụng chống địch càn quét, bảo vệ được đất, được dân. Chính quyền cách mạng, chia trên 1000 mẫu ruộng công điền cho 5000 dân, giảm tô cho 32 gia đình tá điền. Hàng trăm con em nông dân cấp sách đến các trường phổ thông. Người lớn tuổi tham gia các lớp học chống nạn mù chữ. Vùng nông thôn đồng bằng giải phóng đã phát huy ảnh hưởng chính trị, làm chỗ dựa cho lực lượng vũ trang đứng hoạt động, góp phần giải quyết một phần các nhu cầu thiết yếu cho căn cứ miền núi, và hỗ trợ phong trào ở thị xã, thị trấn. Hàng ngàn thanh niên rút lên bổ sung cho các đơn vị bộ đội, thành lập ở mỗi huyện 1 đại đội địa phương, riêng Bắc Ninh Hòa có 2 đại đội.
Tỉnh ủy mở 2 trường đào tạo cán bộ ở Hòn Dữ và Đá Bàn, bồi dưỡng nhiều đồng chí sau này thành nòng cốt của các đội vũ trang công tác, hoặc trở thành cán bộ lãnh đạo huyện, tỉnh trong thời kỳ chống "chiến tranh cục bộ".
Nhìn chung phong trào cách mạng trong tỉnh đã tạo được thế đứng vững ở khắp 3 vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và đô thị.
Từ lâu, chẳng những đô thị mà cả vùng đồng bằng nông thôn Khánh Hòa là hậu phương của địch. Nay một phần quan trọng vùng nông thôn đồng bằng đã được giải phóng, các thôn xã còn lại ở thế ta làm chủ và tranh chấp trên diện rộng, thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch. Vùng nông thôn đồng bằng giải phóng nối với các huyện miền núi căn cứ cách mạng, tạo thế đứng liên hoàn, một thế tiến công vững chắc. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đối với phong trào cách mạng của tỉnh trong chặng đường dài tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.
___________
1. Miền núi Khánh Hòa trong chống Mỹ được chia làm 3 huyện: Khánh Sơn, Vĩnh Sơn, Vĩnh Khánh.
2. Báo cáo của Ty Công an (ngụy) Khánh Hòa tháng 9-1960. Bản lưu tại Bộ phận LS Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa.
3. Đến năm 1962 đổi tên là UBND tự quản.
4. Nay là quốc lộ 26.
5. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 1 năm 1961.
6. Eisenhower (1953-1961), Kenedy (1961-1963), Johnson (1963-1969), Ních-xơn (1969-1974), Ford (1974-1977).
7. Năm 1962 Khánh Hòa có 77 xã gồm 326 ấp. Theo báo cáo của tỉnh trưởng Khánh Hòa trong Hội nghị ấp chiến lược ngày 30-5-1962. Bản lưu tại Bộ phận NCLS Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
8. Ấp "Đôn Tín" ở thôn Phú Thọ, xã Ninh Diêm là ấp kiểu mẫu cho cả Bắc Khánh. "Đôn Tín" là tên của viên đại sứ Mỹ đỡ đầu cho việc xây dựng ấp này.
9. Thời gian này cơ quan đầu não của tỉnh đã chuyển về Vĩnh Khánh.
10. Gồm các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Phú Bổn.
11. Vùng Đại Điền vừa giải phóng, đài BBC đưa tin ngay: Việt Cộng đã chiếm một vùng phía Tây thị xã Nha Trang và đang uy hiếp thị xã này".
12. Thuộc huyện Diên Khánh, nhưng lúc này tỉnh phân cho Vĩnh Xương phụ trách làm bàn đạp cho Nha Trang.
13. Nay là Quảng trường Nhà thông tin đường 2-4.
14. Đi chợ nhồi: là hình thức đi chợ nhiều lần, mỗi lần có một ám hiệu, ký hiệu chung để biểu thị sự đồng tâm, nhất trí đấu tranh.
Tags:
Tác giả:
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Xếp hạng: 0 - 0 phiếu bầu
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (1930 - 2005) (31/01/2018)
- Phụ lục 2 (30/01/2018)
- Phụ lục (30/01/2018)
- Kết luận (30/01/2018)
- Chương XVIII - Đảng bộ Khánh Hòa lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2005) (30/01/2018)
- Chương XVII - Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (7/1989 - 1995) (30/01/2018)
- Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu (23/10/1945 - 12/1946) (30/01/2018)
- Chương V - Xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 10/1945) (30/01/2018)
- Chương IV - Cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám (1940 - 1945) (30/01/2018)
- Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đòi tự do, cơm áo và hòa bình (1936 - 1939) (30/01/2018)