PHẦN THỨ NĂM
TÁI LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA, TIẾP TỤC
LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (7/1989 - 12 /2005)
Chương XVII
ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (7/1989 - 1995)
I. TÁI LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA, ỔN ĐỊNH TỔ CHỨC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Cuộc khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô diễn ra phức tạp, tác động tiêu cực đến nước ta và phong trào cách mạng thế giới. Các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế triệt để khai thác những khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường can thiệp, phá hoại và thực hiện âm mưu xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, sau 3 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng, chứng tỏ đường lối đổi mới và bước đi của nước ta là đúng đắn, tạo được niềm tin trong Đảng và trong nhân dân.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước những thách thức mới hết sức gay gắt, kinh tế xã hội chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp. Sự tác động tiêu cực của tình hình các nước xã hội chủ nghĩa và sự phá hoại của các thế lực đế quốc và bọn phản động càng làm cho tình hình chính trị xã hội phức tạp thêm.
Thực hiện Quyết định số 83 của Bộ Chính trị và Nghị quyết của kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VIII về tái lập tỉnh Khánh Hòa, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 30 đồng chí, trong đó có 23 ủy viên chính thức và 7 ủy viên dự khuyết, 6 đồng chí trong Ban Thường vụ, đồng chí Bùi Hồng Thái được cử làm Quyền Bí thư Tỉnh ủy1; các đồng chí Võ Hòa, Nguyễn Thị Hồng Vân làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.
Quyết định của Đảng và Nhà nước về thành lập một số tỉnh mới, trong đó có tỉnh Khánh Hòa đã đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc phấn khởi, tin tưởng, chung sức, chung lòng xây dựng quê hương.
Cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa tập trung sức thực hiện mục tiêu của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Ngày 1-7-1989, lễ tái lập tỉnh Khánh Hòa được tổ chức long trọng tại thành phố Nha Trang. Tại buổi lễ, đồng chí Bùi Hồng Thái, Quyền Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa có bài phát biểu, nêu rõ: “Đảng bộ, quân và dân tỉnh Khánh Hòa phấn khởi đón mừng quyết định của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 5 chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Đây là quyết định lớn, một chủ trương sáng suốt, thể hiện tư duy mới, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh Phú Khánh, tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi tỉnh phát huy hơn tiềm năng và thế mạnh của mình, khắc phục tình trạng hành chính quan liêu, xa rời quần chúng, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quản lý, điều hành của bộ máy Đảng, chính quyền các cấp do một địa bàn quá rộng và phức tạp.
Để viết tiếp trang sử vẻ vang của Đảng bộ Khánh Hòa, trước mắt phải đương đầu với không ít khó khăn, thử thách mới. Nhiệm vụ thời gian này của Đảng bộ Khánh Hòa hết sức nặng nề.
1. Trước hết phải khẩn trương điều chỉnh, bổ sung kế hoạch kinh tế - xã hội... Thế mạnh của Khánh Hòa là kinh tế biển trong đó có hải sản và vận tải biển, du lịch - dịch vụ, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất nông nghiệp rất đa dạng.
2. Mặt trận văn hóa, tư tưởng đang là vấn đề nóng bỏng và phức tạp. Một thời gian dài do một số quan điểm lệch lạc đã buông lỏng lãnh đạo và quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ, để phim ảnh và băng nhạc có nội dung xấu lưu hành. Công tác xuất bản, báo chí kể cả báo Đảng cũng có một số bài có nội dung thiếu chính xác và thiếu lành mạnh. Tờ báo của Đảng bộ Phú Khánh có lúc trở thành diễn đàn cho một số cá nhân đả kích lẫn nhau hoặc xuyên tạc sự thật.
Tất cả những biểu hiện lệch lạc trên đã không kịp thời uốn nắn, gây tác hại rất nghiêm trọng, đầu độc bầu không khí trong lành của xã hội, kích động tiêu cực và tội ác..., cần phải được chấn chỉnh ngay.
3. Khánh Hòa có hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh với diện tích khá rộng, có tiềm năng với hàng vạn đồng bào dân tộc có truyền thống kháng chiến kiên cường anh dũng và lao động cần cù; Tỉnh ủy giao cho các cơ quan chức năng điều tra nắm lại tình hình các mặt và căn cứ vào tình hình thực tế để xây dựng phương án phát triển kinh tế - xã hội, nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc.
4. Vấn đề an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ở nơi này hay nơi khác đã xuất hiện tình trạng vô chính phủ, phải kiên quyết chấn chỉnh tình hình trên. Tăng cường trách nhiệm quản lý, giáo dục của các cơ quan chính quyền đoàn thể và Mặt trận Tổ quốc, nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
5. Đối với công tác xây dựng Đảng; phải nắm vững những quan điểm, những nguyên tắc cơ bản trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI và kết luận của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng, nhằm kiên định lập trường, giữ vững lòng tin vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Làm cho mọi người phấn khởi, tin tưởng, thấy rõ chia tỉnh là điều kiện tốt để xây dựng tỉnh Khánh Hòa giàu mạnh, trước mắt tuy có khó khăn nhưng có khả năng sớm khắc phục để đi lên”2.
Phấn khởi đón nhận quyết định tái lập tỉnh của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ, quân và dân Khánh Hòa đoàn kết nhất trí, đồng tâm hiệp lực, phát huy các tiềm năng và thế mạnh của mình, tạo ra lực mới, thế mới, vươn lên xây dựng Khánh Hòa nhanh chóng trở thành một trong những tỉnh giàu và đẹp của cả nước, xứng đáng với sự quan tâm của Trung ương Đảng và Quốc hội.
Ngay sau ngày tái lập tỉnh, Tỉnh ủy đã bám sát đường lối, chủ trương của Trung ương, tăng cường chỉ đạo công tác tư tưởng trong tình hình mới; huy động toàn bộ lực lượng làm công tác tư tưởng cùng các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể tập trung truyền đạt, phổ biến, tổ chức nghiên cứu, học tập nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là Quyết định 83 của Bộ Chính trị và Nghị quyết của kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII về việc tái lập tỉnh Khánh Hòa. Thông qua hoạt động của công tác tư tưởng, tạo ra một bước chuyển biến đáng kể về mặt tư tưởng, làm cho mọi người nhận rõ đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan, tạo điều kiện cho tỉnh phát huy tiềm năng và thế mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chấn chỉnh các hiện tượng lệch lạc gây mất đoàn kết nội bộ, tư tưởng cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa. Phải đặt lợi ích lâu dài của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh lên trên hết; khắc phục mọi khó khăn hoàn thành tốt công việc của tỉnh mới được tái lập. Tăng cường đoàn kết, thống nhất chủ trương đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, cải tiến quản lý, khơi dậy được khả năng của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh liên doanh liên kết. Kiên định quan điểm, lập trường về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những kết quả trên mặt trận tư tưởng cùng với những chuyển biến của tình hình kinh tế - xã hội sau tái lập tỉnh, đã từng bước củng cố niềm tin trong Đảng bộ và nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Đảng bộ tỉnh tập trung sức lãnh đạo nhân dân thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất như tiếp nhận bàn giao giữa hai tỉnh; kiện toàn và ổn định bộ máy các cấp; chăm lo đời sống nhân dân; lãnh đạo sản xuất, công tác; triển khai các công việc nhằm quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng và tài nguyên khoáng sản; giữ gìn an ninh, trật tự; xây dựng các kế hoạch, quy hoạch.
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy được Tỉnh ủy quan tâm và tích cực chỉ đạo thực hiện. Tỉnh ủy cũng tập trung nhiều thời gian chỉ đạo việc sắp xếp tổ chức bộ máy và bố trí lại cán bộ ban, ngành cấp tỉnh, đảm bảo hoàn thành sớm ổn định bộ máy của tỉnh đi vào hoạt động bình thường. Đảng ủy các cơ quan tỉnh được giải thể để lập Đảng ủy Dân chính Đảng tỉnh, nhập Ban Dân vận với Mặt trận, giải thể Công ty lương thực tỉnh lập Công ty lương thực trực thuộc Sở Nông nghiệp, sáp nhập Công ty Liên hiệp Xuất nhập khẩu tỉnh và Công ty Vận tải biển thành Tổng Công ty đầu tư xuất nhập khẩu và vận tải biển. Nhập các trường đoàn thể vào trường Đảng tỉnh thành Trường Đào tạo cán bộ Đảng, đoàn thể. Nhập trường Hành chính và các trường đào tạo cán bộ khối chính quyền thành trường Đào tạo cán bộ chính quyền. Thành lập mới các Ban Đảng là: Ban Tài chính - quản trị Tỉnh ủy, Ban Kinh tế Tỉnh ủy, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ và một số cơ quan thuộc chính quyền như: Ban Kinh tế đối ngoại, Sở Du lịch, Sở Địa chính, Cục Đầu tư phát triển. Đồng thời kiện toàn, củng cố 37 sở, ban ngành. Đến đầu năm 1990 về cơ bản mỗi sở, ban ngành đã có cấp trưởng và từ 1 đến 2 cấp phó.
Ngày 23-10-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra các Quyết định số 786-NQNS/TW chỉ định bổ sung 4 đồng chí vào Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa3; số 787-NQNS/TW chuẩn y bổ sung 3 đồng chí vào Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy4; số 788-NQNS/TW chuẩn y 7 đồng chí Ủy viên dự khuyết lên Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa5.
Theo các Quyết định trên, vào thời điểm đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa có 34 Ủy viên chính thức, trong đó có 9 đồng chí vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Toàn Đảng bộ thành lập 28 Đảng đoàn và Ban cán sự Đảng gồm 97 thành viên; có 12 đầu mối trực thuộc: 06 Đảng bộ huyện, 01 Đảng bộ thành phố và 05 Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; cấp Huyện ủy và tương đương được kiện toàn lại. Củng cố một số Thường trực Huyện ủy ở Vạn Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, Nha Trang, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh.
Quá trình kiện toàn bộ máy, sắp xếp đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể bước đầu gọn nhẹ, phù hợp hơn và nâng cao được hiệu quả công tác. Số cán bộ có năng lực được tăng cường cho các ban Đảng, các cơ quan tham mưu cho Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh. Một số cán bộ chủ chốt ở các ngành, các cấp được thay đổi phù hợp với điều kiện sức khoẻ, năng lực và uy tín để điều hành công việc được phân công, bảo đảm sát cơ sở, sát quần chúng. Việc lập thêm các tổ chức Hội quần chúng đảm bảo được yêu cầu nhiệm vụ thiết thực, đúng pháp luật và được quản lý chặt chẽ.
Việc sắp xếp bố trí chỗ làm việc cho các cơ quan Đảng, các sở thuộc khối chính quyền, đoàn thể một cách hợp lý, tiết kiệm, đưa các cơ sở dôi ra phục vụ sản xuất kinh doanh (qua sắp xếp lại bộ máy và cán bộ đã dôi ra 1.150 cán bộ, công nhân viên).
Xây dựng quy chế làm việc của Tỉnh ủy, giữa Ban Thường vụ Tỉnh ủy với Thường trực Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân và các ngành, các cấp, các đoàn thể... giữ vững chế độ báo cáo, thỉnh thị, thông báo, đảm bảo thông tin thông suốt, chính xác, có chất lượng phục vụ kịp thời cho chỉ đạo. Củng cố các mạng lưới thông tin, đảm bảo phục vụ trong mọi tình huống.
Ngày 19-11-1989, Tỉnh ủy lãnh đạo tổ chức cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp thành công tốt đẹp. Hội đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1989-1994 có 60 đại biểu, trong đó có 15 đồng chí Tỉnh ủy viên tham gia Hội đồng nhân dân, 17,7% nữ, 22,2% đại biểu ngoài Đảng. Kiện toàn cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân và các chức danh Trưởng ban của Hội đồng nhân dân.
Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp thành công thể hiện sự đổi mới về nhận thức đối với vai trò của chính quyền các cấp, trách nhiệm của cử tri trong việc xây dựng chính quyền thông qua bầu cử.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp từng bước điều hành công việc theo luật định. Vai trò Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp được đề cao. Việc tổ chức điều hành và quản lý về Nhà nước, quản lý hành chính - kinh tế có tiến bộ hơn trước. Các cấp ủy Đảng giảm bớt sự bao biện làm thay và can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan chính quyền.
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy bước đầu đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị chặt chẽ hơn, hợp lý hơn. Khắc phục một bước sự lỏng lẻo về tổ chức và về vai trò lãnh đạo của Đảng ở một số nơi. Hoạt động của bộ máy có chuyển biến tích cực, nội bộ đoàn kết nhất trí hơn. Các ban của Đảng có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng tham mưu, giúp Tỉnh ủy xây dựng hoặc thẩm định các đề án, hướng dẫn kiểm tra các mặt công tác của Đảng.
Công tác cán bộ được Đảng bộ luôn chú trọng. Sau khi tái lập, tỉnh đã đề bạt 40 đồng chí cấp trưởng, phó ngành cấp tỉnh để thay thế số cán bộ chủ chốt chuyển về công tác ở Phú Yên. Thực hiện Chỉ thị 14 của Ban Bí thư, cấp ủy các cấp và cán bộ chủ chốt đã tự phê bình và phê bình nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, củng cố đoàn kết nội bộ, tăng cường trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật. Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, một số Ban Thường vụ và Huyện ủy có những khuyết điểm về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của mình đã nghiêm khắc kiểm điểm trước Đảng.
Quán triệt Quyết định 44 của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy chỉ đạo đưa công tác cán bộ đi vào nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ; đảm bảo đúng quy trình, dân chủ trong các khâu đánh giá, tuyển chọn đề bạt, bầu cử, bổ nhiệm; chú trọng hơn về yêu cầu phẩm chất chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần đoàn kết nội bộ khi xem xét đề bạt, bố trí cán bộ. Từng bước sửa chữa các biểu hiện bè phái, cục bộ, bản vị trong việc đánh giá, đề bạt cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Tỉnh ủy quan tâm. Năm 1989 đào tạo, bồi dưỡng 530 cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành qua hệ thống trường Đảng. Từ năm 1991 đến năm 1995 đã mở được 92 lớp bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn cho cán bộ, có 13.078 cán bộ các cấp theo học. Trong đó: bồi dưỡng lý luận chính trị 3.285 người, bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế và các lĩnh vực khác 5.764 người, tập huấn cán bộ Đảng, đoàn thể, chính quyền 3.393 người, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước 656 người. Trong số cán bộ đi học có 677 cán bộ học lý luận chính trị cao cấp và 107 cán bộ học lớp đại học báo chí. Vận dụng và thực hiện tốt các chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XII (vòng 1)
Thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW ngày 22-5-1990 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức Đại hội các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, từ ngày 26 đến 30-4-1991 Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa tiến hành Đại hội lần thứ XII (vòng 1). Đại hội thảo luận góp ý vào dự thảo các Văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) trình Đại hội VII của Đảng, bầu đoàn đại biểu của Đảng bộ đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII gồm 11 đồng chí.
Từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Hà Nội diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Với tinh thần Đại hội của Trí tuệ - Đổi mới - Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết, Đại hội tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, rút ra 5 bài học kinh nghiệm trong tiến trình đổi mới, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Nhằm quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Tỉnh ủy Khánh Hòa tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng bộ. Nắm vững nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, công tác chính trị, tư tưởng được Đảng bộ coi trọng. Bám sát các Nghị quyết của Trung ương và đặc điểm tình hình trong tỉnh, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và bằng nhiều hình thức, Đảng bộ kịp thời tổ chức cho đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, chương trình hành động của Tỉnh ủy; giáo dục, bồi dưỡng những quan điểm đổi mới, lý luận chính trị, kiến thức quản lý kinh tế, pháp luật, công tác quần chúng; giáo dục truyền thống cách mạng đi đôi với động viên nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới.
Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng với tinh thần tích cực, nghiêm túc. Đại đa số cán bộ, đảng viên đón nhận Nghị quyết với sự đồng tình, tích cực hưởng ứng các cuộc sinh hoạt Đảng thực hiện Nghị quyết, biểu thị sự nhất trí cao về chủ trương, nguyên tắc và quan điểm đổi mới của Đảng. Việc nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng trong nội bộ Đảng và quần chúng giúp các cấp uỷ có biện pháp chỉ đạo, củng cố sự thống nhất, nâng cao niềm tin của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh thần năng động sáng tạo của tổ chức Đảng và quần chúng trong công cuộc đổi mới; nâng cao nhận thức cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, đẩy lùi các biểu hiện sai trái trong nhận thức tư tưởng và hành động lệch lạc.
Ưu điểm của công tác tư tưởng thời gian này không chỉ có giáo dục, giải thích, thuyết phục mà góp phần cụ thể hóa đường lối, chủ trương, định hướng hoạt động, bồi dưỡng tư duy kinh tế cho cán bộ, đảng viên. Vì vậy, đường lối đổi mới của Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng được quần chúng hưởng ứng, tích cực thực hiện. Không khí dân chủ, cởi mở, quan điểm "lấy dân làm gốc" là nét mới trong đời sống chính trị. Tuy mới bước đầu nhưng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh bày tỏ được ý kiến của mình trước những vấn đề đặt ra của đất nước, góp phần bổ sung đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. Việc chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một bước ngoặt lớn được xã hội thừa nhận, quần chúng đồng tình, bước đầu lập lại trật tự và công bằng xã hội. Kiên định được mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chống đa nguyên, đa đảng, tuyên truyền nhân tố mới, góp phần đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Bên cạnh ưu điểm, công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng chưa theo kịp tình hình và nhiệm vụ mới. Đặc biệt tình hình mất đoàn kết nội bộ có mặt nghiêm trọng xảy ra ở một số đồng chí trong Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và một vài địa phương, đơn vị, đã làm giảm uy tín lãnh đạo của Tỉnh ủy và hiệu lực điều hành, quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh. Một bộ phận cán bộ, đảng viên băn khoăn lo lắng, thiếu yên tâm công tác, giảm nhiệt tình và lòng tin đối với sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, làm hạn chế kết quả đạt được trên các lĩnh vực và không tiến hành Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII (vòng 2) được.
Trước tình hình của việc mất đoàn kết, từ ngày 2 đến 7-11-1991, Tỉnh ủy Khánh Hòa họp Hội nghị lần thứ 7 để kiểm điểm sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và kiểm điểm cá nhân Tỉnh ủy viên trong nhiệm kỳ 1987-1991. Đồng chí Lê Phước Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương về dự và chỉ đạo Hội nghị.
Sau khi thống nhất nhận định đánh giá những ưu điểm, những chuyển biến tiến bộ trên các mặt, đặc biệt về kinh tế - xã hội, Hội nghị nghiêm túc phân tích, phê phán tình trạng mất đoàn kết, những biểu hiện mất đoàn kết nội bộ và chỉ rõ nguyên nhân của tình hình, trong đó "Nguyên nhân bao trùm là tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, kéo bè cánh, nhằm thực hiện ý đồ không lành mạnh của một số cá nhân. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nguyên tắc tự phê bình và phê bình bị vi phạm. Kỷ cương, pháp luật không được chấp hành nghiêm túc. Một bộ phận đảng viên thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức"6.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội nghị ra Nghị quyết về một số nhiệm vụ cấp bách để giải quyết vấn đề mất đoàn kết nội bộ7, đó là:
"1. Tất cả cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí trong Tỉnh ủy, Huyện ủy, Thành ủy và các Đảng ủy, Chi ủy cần phát huy dân chủ nội bộ trên tinh thần đồng chí, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, liên hệ kiểm điểm vấn đề mất đoàn kết nội bộ, có trách nhiệm phát hiện những cá nhân có biểu hiện gây mất đoàn kết để cùng nhau đấu tranh khắc phục và ngăn ngừa mọi biểu hiện gây mất đoàn kết.
2. Tổ chức một đợt sinh hoạt nhằm quán triệt Nghị quyết này của Tỉnh ủy ở các Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy và các tổ chức cơ sở Đảng để xem xét và có biện pháp xử lý tốt các hiện tượng mất đoàn kết. Những cá nhân, tập thể đã rõ là có hành động gây mất đoàn kết, cần được xử lý nghiêm túc.
3. Chỉ đạo xử lý tốt các vụ việc tiêu cực nhất là những vụ việc được đông đảo dư luận quan tâm, những vụ làm mất mát thâm hụt lớn tài sản xã hội chủ nghĩa. Làm rõ những cá nhân có liên quan đến việc xuất bản quyển sách xấu "Tiếng khóc của một loài chim yến" để xử lý nghiêm minh.
4. Chỉnh đốn lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh. Bổ sung qui chế làm việc của Tỉnh ủy và làm việc theo qui chế. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tăng cường tính tập thể, bảo đảm đúng pháp luật và nguyên tắc quản lý kinh tế trong việc điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh. Những quyết định lớn phải được tập thể thông qua.
5. Tăng cường giáo dục về phẩm chất đạo đức, giáo dục tình cảm cách mạng, lối sống trong sạch, giản dị, tôn trọng luật pháp cho cán bộ, đảng viên và công nhân viên chức Nhà nước; thường xuyên chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra, đảm bảo kỷ cương, luật pháp, ngăn ngừa những sai phạm mới”.
Ngày 3-3-1992, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 12-CT/TU về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7 giải quyết vấn đề mất đoàn kết trong Đảng bộ. Được sự chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy và Ban Thường vụ kiên quyết xử lý những cá nhân gây mất đoàn kết trong Đảng bộ; chỉ đạo xử lý những cấp ủy cấp dưới có tình trạng mất đoàn kết. Đồng thời tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy một số Ban Đảng tỉnh, các Đảng ủy, Đảng đoàn và Ban cán sự Đảng các cơ quan; sắp xếp, bố trí một số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện và chỉ đạo rà soát, bổ sung qui chế làm việc, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đưa quy trình công tác cán bộ vào nền nếp là những biện pháp cơ bản để khắc phục hậu quả của việc mất đoàn kết và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng bộ.
Việc giải quyết vấn đề mất đoàn kết nội bộ được kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng8; Hội nghị Trung ương 5 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn9; Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 2-8-1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tháng 3-1994 Hội nghị cán bộ Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa được tiến hành. Hội nghị có nhiệm vụ quán triệt Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng, thảo luận góp ý kiến vào báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về kiểm điểm đánh giá thực trạng tình hình trong tỉnh từ năm 1990-1993, những việc đã làm và chưa làm được, rút ra những nguyên nhân và kinh nghiệm; xác định mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu hai năm 1994-1995, phấn đấu xây dựng Khánh Hòa trở thành tỉnh giàu mạnh và văn minh, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
Tại Hội nghị cán bộ Đảng bộ tỉnh, Ban Bí thư quyết định cho 11 đồng chí rút khỏi Tỉnh ủy, đồng thời chỉ định bổ sung 13 đồng chí vào Ban Chấp hành và điều động 1 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Trung ương. Cho đến trước Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có 29 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 8 đồng chí.
Từ sau Hội nghị cán bộ Đảng thay cho Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ tỉnh, công tác xây dựng Đảng bộ có chuyển biến tích cực. Cùng với các giải pháp xử lý tình hình mất đoàn kết nội bộ, Tỉnh ủy đề ra chương trình hành động 8 điểm phù hợp với tình hình Đảng bộ, tập trung vào các khâu then chốt. Kết quả về hành động thể hiện rõ nhất trên một số lĩnh vực như kiên quyết xử lý việc mất đoàn kết nội bộ, tổ chức bộ máy, cán bộ từng bước được kiện toàn, thúc đẩy nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thu được thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững quốc phòng an ninh; niềm tin của cán bộ đảng viên trong Đảng và trong xã hội được củng cố, có sự thống nhất, ổn định về chính trị.
Năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng và chất lượng đảng viên được nâng lên đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Về tổ chức cơ sở Đảng, khi tái lập tỉnh, số Đảng bộ, Chi bộ cơ sở có 546 tổ chức. Tỉnh ủy chỉ đạo tiến hành tách các tổ chức cơ sở Đảng ở các doanh nghiệp Nhà nước ra khỏi Đảng ủy Dân chính Đảng và Thành ủy Nha Trang để thành lập Đảng ủy khối doanh nghiệp trực thuộc tỉnh, đến 1995 có 13 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy gồm 561 tổ chức cơ sở Đảng (75 Đảng bộ và 486 chi bộ cơ sở). Hoàn thành việc lập và củng cố Ban cán sự Đảng trong các cơ quan Nhà nước, Đảng đoàn trong các cơ quan dân cử. Một số Đảng đoàn, Ban cán sự đã xây dựng được quy chế làm việc, cụ thể hóa chức năng và mối quan hệ công tác với các tổ chức có liên quan, gắn vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội ngay từ cơ sở.
Tổng số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh đạt 29,7%, so với năm 1990, tăng 12%; số tổ chức cơ sở yếu kém chiếm 13,5% trong tổng số 561 tổ chức cơ sở Đảng. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 65 ngày thành lập Đảng (3.2.1930 - 3.2.1995), Tỉnh ủy đã biểu dương 48 tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh 3 năm liền (1992-1994) và đề nghị Ban Bí thư biểu dương 2 tổ chức cơ sở Đảng.
Tuy nhiên, việc chỉnh đốn Đảng về tổ chức vẫn còn một số cấp ủy và tổ chức cơ sở Đảng có biểu hiện tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, kỷ luật lỏng lẻo. Phần đông các tổ chức cơ sở Đảng chưa xây dựng được quy chế hoạt động. Hoạt động của các Đảng đoàn, Ban cán sự còn lúng túng. Một số cấp ủy và tổ chức cơ sở vẫn còn biểu hiện mất đoàn kết, có nơi nghiêm trọng nhưng giải quyết còn chậm. Ở một số nơi tổ chức Đảng còn bao biện làm thay các tổ chức Nhà nước. Một số nơi khác lại buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, có cá nhân không tự đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng.
Tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể vẫn chưa phân định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, chế độ trách nhiệm và lề lối làm việc. Thủ tục hành chính còn rườm rà, gây phiền hà cho cấp dưới.
Việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng nhất là chi bộ làm chưa tốt, còn nhiều cơ sở yếu kém và chưa theo kịp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Việc xây dựng tổ chức Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài chậm.
Về công tác đảng viên, khi tái lập tỉnh, đội ngũ đảng viên toàn tỉnh có 11.500 đồng chí. Việc phát triển Đảng được Đảng bộ tỉnh thường xuyên quan tâm và bước đầu có chuyển biến. Nhiều cấp ủy Đảng chú trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, tiến hành rút kinh nghiệm phát triển Đảng, hướng dẫn và mở nhiều lớp bồi dưỡng cho các đối tượng phát triển Đảng. Đến năm 1995, toàn tỉnh kết nạp 1.774 đảng viên, trong đó 75% có trình độ học vấn phổ thông trung học trở lên, 47% là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đưa tổng số đảng viên của Đảng bộ lên hơn 13.200 đảng viên (trong đó có 32,8% đảng viên nghỉ hưu). Số đông đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức, tin tưởng vào đường lối đổi mới, phấn đấu thực hiện nhiệm vụ được giao. Số đảng viên đủ tư cách, phát huy tác dụng tốt chiếm 72,76%; đảng viên đủ tư cách nhưng có mặt hạn chế, có khuyết nhược điểm nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật chiếm 24,24%; đảng viên vi phạm tư cách chiếm 2,27%; đã đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức 392 người, trong đó khai trừ 146 đảng viên, số còn lại do bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, không thiết tha với Đảng xin rút.
Nhiều cấp ủy Đảng bước đầu làm tốt việc tổ chức và hướng dẫn đảng viên nâng cao trình độ và kiến thức như mở các lớp học văn hóa, chính trị, quản lý kinh tế, ngoại ngữ... nhất là ở khu vực cơ quan, các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp. Qua đó ý thức tự vươn lên, nhất là số đảng viên trẻ có chuyển biến rõ. Thông tin tư tưởng và báo Đảng đến với tổ chức Đảng và đảng viên nhiều hơn, kịp thời hơn.
Việc phân tích chất lượng đảng viên được đổi mới, thông qua việc xem xét vai trò người đảng viên trong việc thực hiện sự nghiệp đổi mới về công tác được giao. Nâng cao chất lượng đảng viên, chú trọng đưa đảng viên vào hành động thực tiễn, gắn trách nhiệm của đảng viên, của cấp uỷ cơ sở và cấp ủy cấp trên trực tiếp đối với việc phân tích chất lượng đảng viên hàng năm, khắc phục tình trạng đảng vụ đơn thuần trong việc phân tích chất lượng đảng viên.
Song, những chuyển biến về công tác đảng viên chưa đều, còn nhiều hạn chế; một số đảng viên bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, không thiết tha với Đảng; ý thức Đảng của một số đảng viên là cán bộ chuyên môn, cán bộ Nhà nước còn yếu và có những quan niệm lệch lạc. Nội dung và phương pháp công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất và kiến thức chưa theo kịp cơ chế mới. Việc phân tích chất lượng đảng viên một số nơi còn hình thức, đảng vụ đơn thuần. Việc quản lý, phân công, kiểm tra, giúp đỡ đảng viên tiến hành chưa thường xuyên. Tuổi bình quân của đảng viên trong toàn Đảng bộ còn cao (trên 44,4 tuổi), trong khi đó nhiều tổ chức Đảng chưa coi trọng công tác phát triển đảng viên mới, đảng viên trẻ.
Công tác kiểm tra kỷ luật Đảng có nhiều cố gắng, góp phần vào việc giải quyết tình trạng mất đoàn kết nội bộ, hạn chế tiêu cực trong nội bộ Đảng, bộ máy Nhà nước, thúc đẩy đổi mới và chỉnh đốn Đảng... Ủy ban Kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng trên 16 ngàn lượt đảng viên và 482 tổ chức Đảng (86%), phát hiện và xử lý kỷ luật 5 tổ chức Đảng và gần 1.000 đảng viên có sai phạm, trong đó có 260 cấp uỷ viên các cấp. Nội dung sai phạm chủ yếu tập trung ở vi phạm nguyên tắc tổ chức Đảng, vi phạm pháp luật, thoái hóa biến chất và lối sống. Song công tác kiểm tra ít chú ý đến ngăn chặn, phòng ngừa, thường bị động, lúng túng chạy theo vụ việc. Xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm quy định về nguyên tắc, tổ chức sinh hoạt Đảng được tiến hành kịp thời và nghiêm túc nhưng đối với đảng viên vi phạm pháp luật, gây thất thoát, lãng phí lớn, tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, thoái hóa về đạo đức và lối sống thì xử lý chậm và chưa nghiêm vì khó làm rõ, tính tự giác của đảng viên kém, làm hạn chế tác dụng ngăn chặn tiêu cực, nhất là đối với đảng viên có chức, có quyền.
Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy quan tâm đổi mới sự lãnh đạo, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm về công tác tổ chức cán bộ, khắc phục sự lúng túng về phương thức lãnh đạo, tác phong công tác của cấp ủy, tháo gỡ những vướng mắc trong mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền. Tích cực nghiên cứu tìm ra phương pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy và nâng cao khả năng quản lý, điều hành của chính quyền và cơ quan quản lý.
Tỉnh uỷ xây dựng quy chế làm việc, xác định quyền hạn trách nhiệm của Đảng bộ tỉnh trong lãnh đạo thực hiện chủ trương đường lối, nghị quyết của Trung ương bằng việc xác định phương hướng, nhiệm vụ, những chủ trương và giải pháp lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng và công tác quần chúng... coi trọng thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hạn chế việc ra nghị quyết, sau mỗi lần có Nghị quyết của Trung ương được xây dựng bằng chương trình hành động, cụ thể, thiết thực, sát với tình hình thực tiễn của địa phương. Phát huy đầy đủ chức năng quản lý, điều hành của chính quyền các cấp và vai trò của các đoàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo, kiểm tra của Đảng, làm cho bộ máy của hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả trên cơ sở chấp hành nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Giữ vững nguyên tắc giới thiệu bố trí cán bộ cho cơ quan chính quyền, các đoàn thể trên cơ sở đảm bảo về tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất, năng lực, có tính Đảng, tính tổ chức kỷ luật cao. Đảm bảo Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ nhưng đồng thời phải đảm bảo bầu cử dân chủ, đúng luật pháp của nhà nước và điều lệ của các đoàn thể.
Các cấp ủy từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với hệ thống chính trị và xã hội. Thông qua các tổ chức như Ban cán sự, Đảng đoàn để lãnh đạo các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, khắc phục một bước sự chỉ đạo dài tay, bao biện. Bước đầu cải tiến phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, chủ yếu tập trung vào các vấn đề trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian.
Thực hiện thông tin nhiều chiều, tiếp thu ý kiến của cán bộ, đảng viên đối với các đề án lớn, phát huy vai trò chủ động của các cơ quan quản lý chính quyền, tăng cường công tác kiểm tra, uốn nắn kịp thời. Mặt khác, giữ mối quan hệ giữa các cấp ủy, chính quyền, khắc phục tốt hơn những lủng củng, thiếu ăn khớp trong xử lý công việc.
Đi đôi với đổi mới và chỉnh đốn Đảng, bộ máy chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục được xây dựng và củng cố. Đảng bộ tổ chức các cuộc sinh hoạt định kỳ với các đoàn thể và Mặt trận để nắm tình hình công tác dân vận, bổ sung chủ trương, nhiệm vụ và uốn nắn những lệch lạc trong công tác của các đoàn thể và Mặt trận.
Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ cuộc bầu cử Quốc hội khóa IX (ngày 19-7-1992) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (20-11-1994) đạt kết quả tốt. Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là cơ quan quyền lực ở địa phương và đã bầu ra Ủy ban nhân dân các cấp có năng lực điều hành hoạt động của bộ máy nhà nước từ tỉnh đến cơ sở. Các cấp chính quyền từng bước tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, lập lại trật tự kỷ cương xã hội; phân định rõ hơn chức năng quản lý Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế và chức năng trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; cải tiến được một số thủ tục hành chính, giải quyết công việc có nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp với Mặt trận Tổ quốc tổ chức thu thập ý kiến, nguyện vọng chính đáng của cử tri và bước đầu giao cho các cơ quan chức năng giải quyết. Các kỳ họp Hội đồng nhân dân đã thảo luận và quyết định các chủ trương lớn về kinh tế - xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, kiến nghị giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội phản ánh được quan điểm của Đảng và nguyện vọng của nhân dân.
Công tác vận động quần chúng có nội dung phù hợp với từng nơi, từng đối tượng quần chúng và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần khơi dậy các phong trào cách mạng của quần chúng như: phong trào lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm; nhập ngũ, kế hoạch hóa gia đình, mua công trái; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, ủng hộ Trường Sa, đóng góp ủng hộ nhân dân các vùng bị bão lụt... Trong việc đổi mới nội dung công tác vận động quần chúng, các phong trào do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động có nội dung phong phú, gắn với thực tế, được quần chúng hưởng ứng và sớm đi vào cuộc sống.
Đảng bộ tỉnh lãnh đạo thực hiện Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về đại đoàn kết dân tộc, Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khóa VI) về công tác tôn giáo, chỉ đạo sơ kết Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, Nghị quyết 04/TW về công tác thanh niên và các chỉ thị của Ban Bí thư về công tác quần chúng. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo mở hội nghị chuyên đề về công tác tôn giáo và có Chỉ thị về công tác tôn giáo ở địa phương trong tình hình mới. Riêng đối với Nghị quyết 8B, Tỉnh uỷ đã nghiêm khắc kiểm điểm những khuyết nhược điểm trong công tác quần chúng và xây dựng Chương trình hành động số 02-NQ/TU ngày 4-6-1990 về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI). Trong chương trình, Tỉnh ủy nêu rõ: “Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn thể.
- Nghiên cứu bổ sung, tăng cường cán bộ cho các đoàn thể quần chúng và Mặt trận Tổ quốc. Phân công cấp ủy viên phụ trách công tác quần chúng, phân công đồng chí trong Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh theo dõi và phối hợp hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên của Mặt trận để nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng. Nắm chắc đường lối chủ trương của Đảng để đi sâu vận động các tầng lớp quần chúng.
- Các đoàn thể phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động phù hợp với từng đối tượng. Đi sâu, đi sát cơ sở. Phát động phong trào quần chúng hành động thiết thực. Thông qua các phong trào mà củng cố tổ chức, phát triển hội viên, đoàn viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, có kế hoạch phát động giáo dục học sinh, sinh viên, trí thức, tôn giáo, nhất là tranh thủ chức sắc trong các tôn giáo.
- Từng đoàn thể phải xây dựng cốt cán trong hội viên, đoàn viên, thông qua cốt cán để nắm hội viên, đoàn viên. Thường xuyên có sinh hoạt cốt cán để phản ánh tình hình, phổ biến chủ trương công tác. Các đoàn thể quần chúng và Mặt trận phải tập trung xây dựng cơ sở, hướng hoạt động về cơ sở. Cần nghiên cứu các hình thức thích hợp để tập hợp quần chúng như các tổ chức nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính...
- Tổ chức tập huấn cho cán bộ xã, phường về công tác vận động quần chúng. Nghiên cứu tổng kết các phong trào quần chúng ở cơ sở để rút kinh nghiệm chỉ đạo”10.
Thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh ủy, đến năm 1993, công tác quần chúng có bước đổi mới về hình thức, nội dung và phương pháp tập hợp quần chúng. Khắc phục tình trạng phát động phong trào quần chúng một cách chung chung, chú ý hơn đến tính trọng tâm, trọng điểm. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị của tỉnh bước đầu phát huy được tính đặc thù của từng tổ chức, vừa bám sát chủ trương của Trung ương, của Đảng bộ tỉnh vừa gắn chặt với việc giải quyết những vấn đề thiết thực của đối tượng mình quản lý, do đó đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân của tỉnh có chuyển biến tích cực.
Qua Đại hội Mặt trận11 và Đại hội Liên đoàn Lao động tỉnh đã kiện toàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động từ tỉnh đến cơ sở, tạo ra sự chuyển biến mới, nhất là về cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác này. Năm 1994, hoạt động của các đoàn thể chính trị có tiến bộ cả bề nổi và chiều sâu. Nội dung giáo dục truyền thống, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật và các chương trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội khá phong phú, sinh động. Các chủ đề, chương trình gắn với từng loại đối tượng hội viên cụ thể, do đó thu hút được đông đảo quần chúng tham gia. Công tác Mặt trận bám sát nhiệm vụ và phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị, nhất là việc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Năm 1995, cấp ủy và chính quyền các cấp chú trọng hơn đến việc củng cố Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, phát huy vai trò của đội ngũ đảng viên trong các tổ chức quần chúng, tăng thêm cấp ủy viên làm công tác dân vận, mặt trận nhất là ở cấp huyện và cơ sở. Mặt trận và các đoàn thể các cấp đã chú ý đổi mới một bước về nội dung và phương thức hoạt động, hướng về cơ sở và đa dạng hóa hình thức, nội dung vận động; gắn chăm lo lợi ích của quần chúng với động viên quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Tổ chức được nhiều phong trào kết hợp hài hòa “ý Đảng lòng dân” như: tín chấp cho nhân dân vay vốn phát triển kinh tế gia đình, hoạt động từ thiện, chăm sóc các đối tượng chính sách, vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình văn hóa mới, giữ gìn trật tự trị an, phòng chống các tệ nạn xã hội.
Cùng với việc thành lập tổ chức Đảng đoàn và lãnh đạo chặt chẽ Đại hội Mặt trận và các đoàn thể, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác quần chúng được tăng cường và đưa hoạt động mặt trận và đoàn thể các cấp đi vào nền nếp, thiết thực và hiệu quả hơn, tạo được bầu không khí dân chủ, công khai trong sinh hoạt của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của quần chúng trên các lĩnh vực, góp phần tích cực vào những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa đạt được trong những năm 1989 - 1995.
Công tác tuyên truyền, vận động đối với các thành viên trong tổ chức và quần chúng được tăng cường. Các phong trào hành động cách mạng của quần chúng đã bám vào mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, một số chủ đề chính như phong trào lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước của thanh niên; sản xuất giỏi, biết làm giàu của nông dân; giáo dục truyền thống của cựu chiến binh; lao động sáng tạo của công nhân; làm kinh tế gia đình, nuôi con khỏe, dạy con ngoan của phụ nữ đã có những kết quả tốt. Những năm 1989 - 1995, mặc dù dân số tăng nhanh do dân cư nhiều tỉnh đến sinh sống làm ăn, nhưng nhờ có chính sách hợp lý, công tác vận động quần chúng quan tâm đúng mức nên mọi người yên tâm làm ăn, đoàn kết xây dựng quê hương Khánh Hòa ngày càng phát triển.
Với chủ trương xoá đói giảm nghèo của Trung ương, Đảng bộ tỉnh kịp thời chỉ đạo triển khai rộng rãi trong nhân dân, thành lập Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo ở các cấp nhằm chăm lo tốt phong trào này. Ngoài việc dùng vốn Trung ương, toàn tỉnh còn vận động nhân dân được trên 6 tỷ đồng để giúp đỡ vốn cho hộ nghèo đói phát triển sản xuất, từng bước ổn định cuộc sống, vượt qua đói nghèo. Cùng với việc hỗ trợ vốn, các ngành, các cấp trong tỉnh còn triển khai các biện pháp đồng bộ, hướng dẫn kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, cung cấp giống, phổ biến kỹ thuật mới, gắn với xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đặc biệt, từ năm 1990 đến năm 1995, tỉnh đầu tư gần 73 tỷ đồng cho 2 huyện miền núi, giành một khoản vốn trên 5 tỷ đồng cho 2.645 hộ vay để sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Cuộc vận động trở thành phong trào quần chúng tự nguyện, đoàn kết tương trợ nhau về vốn, giống, lao động, về tiến bộ khoa học kỹ thuật, về kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh v,v... góp phần quan trọng giúp cho nhiều hộ gia đình có đời sống khá lên, số hộ nghèo đói giảm rõ rệt, nhất là các huyện đồng bằng.
Phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc các gia đình chính sách được Đảng bộ tỉnh quan tâm chỉ đạo một cách thiết thực. Nổi bật nhất là phong trào vận động nhân dân ủng hộ nhận phụng dưỡng và chăm sóc Bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Nhiều địa phương, ban ngành, xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Vào các ngày Tết và lễ kỷ niệm lịch sử, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà các gia đình có công với nước, với quê hương để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, góp phần động viên và thể hiện sự gắn bó giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Đến năm 1995, toàn tỉnh xây dựng được 123 căn nhà tình nghĩa với tổng số 1,4 tỷ đồng, tu sửa 74 căn nhà trị giá 382 triệu đồng. Tặng 1.700 sổ tiết kiệm tình nghĩa, vận động phụng dưỡng 61 Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho đến suốt đời.
Việc làm cho người lao động được Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo các đoàn thể thông qua các hình thức dạy nghề, giới thiệu việc làm, nhận số thanh niên tốt nghiệp đại học trong tỉnh chưa có việc làm vào các công ty, xí nghiệp, đồng thời tranh thủ các nguồn vốn tạo việc làm của Trung ương, cùng với việc mở rộng và phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh. Năm 1994 đã giải quyết cho 12.000 lao động, tăng 2.500 người so với năm 1993.
Tầng lớp trí thức trong tỉnh có những đóng góp tích cực bằng các công trình nghiên cứu khoa học, phục vụ đời sống và tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Giới công thương gia, tiểu chủ, tiểu thương tin tưởng đường lối đổi mới của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, an tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, có những đóng góp tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động và các hoạt động xã hội.
Cuộc vận động ủng hộ đồng bào bị bão lụt, ủng hộ nhân dân Cu-Ba cũng được nhân dân tham gia tích cực và đạt kết quả lớn. Các phong trào từ thiện xã hội, người tốt việc tốt... được duy trì thường xuyên ở nhiều địa phương, đơn vị, đoàn thể.
Các phong trào ủng hộ bộ đội, chiến sĩ được nhân dân, Mặt trận, các đoàn thể hưởng ứng tích cực.
Thông qua các hoạt động có hiệu quả, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể, các hội quần chúng, hội nghề nghiệp được nâng lên. Thu hút được một bộ phận khá đông quần chúng vào tổ chức.
Tuy nhiên, công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận và đoàn thể còn một số hạn chế, yếu kém đáng quan tâm: Việc thực hiện dân chủ có mặt còn hình thức, chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác quần chúng của Đảng. Bộ máy chính quyền cấp tỉnh mới được thành lập còn gặp nhiều khó khăn, cán bộ lãnh đạo nhiều người chưa có kinh nghiệm quản lý, còn thiếu cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi. Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể nhân dân tuy có nhiều cố gắng hoạt động nhưng trước cơ chế mới còn lúng túng, bị động. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên, hội viên và quần chúng hiệu quả còn thấp. Một số cấp ủy Đảng và đảng viên chưa thường xuyên coi trọng sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, xây dựng nòng cốt. Giải quyết công việc hành chính của các cấp chính quyền còn biểu hiện quan liêu, xa dân, gây phiền hà cho nhân dân. Chính quyền cơ sở còn yếu kém trong quản lý địa bàn và chăm lo lợi ích cho dân.
II. ĐẢNG BỘ KHÁNH HÒA LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, GIÀNH THẮNG LỢI QUAN TRỌNG BƯỚC ĐẦU TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ giữa năm 1989 đến năm 1995, nhất là từ khi có Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, phấn đấu giành được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới về kinh tế. Năm 1989, Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đối với nông nghiệp. Cùng với việc mở rộng lưu thông tác động về giá cả, khắc phục những yếu kém trong công tác khoán như chống khoán trắng, chú trọng đến lợi ích của người lao động, chỉ đạo xử lý kịp thời số vụ tranh chấp ruộng đất ở Cam Ranh, giữ được sự đoàn kết trong nông dân và nông thôn; tăng cường các biện pháp khoa học kỹ thuật như chỉ đạo về thời vụ, giống, thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh và phòng chống dịch bệnh kịp thời. Ngành nông nghiệp sắp xếp và tổ chức lại các công ty dịch vụ hợp lý hơn, cung ứng đủ và kịp thời các loại vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Một số hợp tác xã nông nghiệp được giữ vững và phát triển. Đời sống xã viên các hợp tác xã và nông dân cá thể được cải thiện rõ. Tình hình sản xuất nông nghiệp và nông thôn, nhất là vùng nông thôn đồng bằng có nhiều chuyển biến mới. Sản lượng lương thực quy thóc đạt xấp xỉ 18 vạn tấn, bằng 95% kế hoạch, tăng gần 2 vạn tấn so với năm 1988. Năng suất và diện tích lúa ở đồng bằng tiếp tục tăng, năng suất và diện tích màu ở miền núi khá hơn trước. Tỷ trọng màu trong lương thực trên 21%. Một số cây công nghiệp ngắn ngày như thuốc lá, dâu tằm, bông, mía có phát triển. Đàn trâu bò tăng 5,4% so với năm 1988. Do chính sách khuyến khích chăn nuôi, đàn bò gia đình phát triển mạnh. Nông dân bước đầu chú trọng việc chăn nuôi bò thịt.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, Tỉnh ủy Khánh Hòa họp Hội nghị lần thứ 14 từ ngày 26-28.7.1993, nghiên cứu vận dụng và xây dựng Chương trình hành động của Đảng bộ về “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn đến năm 1995 và những năm tiếp theo”. Năm 1994, Đảng bộ tỉnh chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đề phòng nạn đói có thể xảy ra, tăng cường đầu tư để chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, kịp thời đưa các giống lúa, bắp lai, mía... cho năng suất cao, kháng bệnh và sâu rầy thay cho một số giống cũ; đưa hàng ngàn tấn giống, phân urê và thuốc trừ sâu cho nông dân vay; chi gần chục tỷ đồng để sửa chữa, tu bổ các công trình thủy lợi nhỏ và giao thông nông thôn; đẩy mạnh công tác khuyến nông, chú trọng công tác khoa học kỹ thuật phục vụ kịp thời cho sản xuất. Đồng thời, tiến hành giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho 46.993 hộ trong tổng số 100.000 hộ nông dân, với 24.439 ha, chiếm 46,5% tổng số diện tích đất nông nghiệp.
Nhờ những cố gắng của Đảng bộ và nhân dân, nông nghiệp năm 1994 có sự tăng trưởng khá so với năm 1993: Năng suất lúa tăng 2,2 tạ/ha (38,9tạ/ha). Sản lượng lương thực tăng 7%, bình quân lương thực/đầu người tăng 3,5kg (194,1kg). Cây công nghiệp ngắn ngày tăng 20%. Giá trị tổng sản lượng ngành nông nghiệp đạt 165 tỷ đồng (giá cố định 1989), tăng 4,1%.
Cuối năm 1994, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 21 họp đánh giá kết quả tình hình kinh tế - xã hội năm 1994 và ra Nghị quyết lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội năm 1995. Trong đó đề ra phương hướng tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ và du lịch. Theo hướng đó, Tỉnh uỷ chỉ đạo đầu tư xây dựng mới Nhà máy đường Ninh Hòa công suất 1.250 tấn mía/ngày, cùng các chủ trương chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vay, các hoạt động khuyến nông, nhân giống mới có tác động thúc đẩy nhân dân tích cực chuyển sang trồng mía.
Năm 1995, cơ cấu cây trồng chuyển dịch tương đối mạnh. Diện tích trồng màu giảm, diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 55% so với cùng kỳ, trong đó diện tích mía tăng từ 3.633 ha năm 1990 lên 6.652 ha năm 1994 và 11.121 ha vào năm 1995. Diện tích và năng suất mía mỗi năm đều tăng góp phần xây dựng và phát triển ngành công nghiệp mía đường của tỉnh. Nổi bật trong chuyển dịch nhanh cơ cấu cây trồng từ cây màu sang cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, khá nhất là các huyện Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Ninh. Toàn tỉnh chuyển 2.283 ha trồng lúa và màu hiệu quả kém sang trồng các loại cây có hiệu quả cao. Rõ nhất là chuyển sang trồng mía, các loại đậu, cây ăn quả, dưa... Diện tích cây ăn quả ở vùng Diên Khánh và Nha Trang ngày càng mở rộng. Trên diện tích 2 vụ lúa, nông dân ở nhiều nơi phát triển thêm một vụ đậu phụng như ở Vạn Lương; trồng dưa ở nhiều xã thuộc Diên Khánh, Nha Trang.
Kinh tế vườn có bước phát triển khá. Ở đâu cũng có phong trào làm VAC, nổi bật nhất là phong trào trồng táo, trồng chanh, trồng sầu riêng... và bước đầu có phong trào xây dựng vườn đồi.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, bình quân hàng năm 3,8%. Trong khu vực nông nghiệp, những kết quả đạt được cơ bản là giữ vững và phát triển sản xuất lương thực cả về diện tích và sản lượng. Diện tích trồng cây lương thực từ 51.917 ha năm 1992 lên 62.151 ha năm 1994; sản lượng quy thóc từ 161.000 tấn năm 1992 lên 180.581 tấn năm 1994, năm 1995 ở mức 181,3 ngàn tấn. Nhờ ổn định được lương thực tạo điều kiện cho các ngành sản xuất phát triển. Cơ sở vật chất phục vụ nông nghiệp tăng lên đáng kể. Hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho 33.000 ha diện tích gieo trồng, tăng 6.000 ha so với năm 1990.
Chăn nuôi được chú trọng, đàn gia súc được giữ vững và phát triển, đàn trâu ổn định 15.000 con. Do được tỉnh đầu tư từ các nguồn vốn xoá đói giảm nghèo, đi đôi với việc thực hiện các dự án cải tạo đàn bò, nhờ vậy đàn bò tăng ở tất cả các huyện, nhất là hai huyện miền núi. Đàn bò từ 61.421 con năm 1992 lên 65.150 con năm 1994, đến cuối năm 1995 đạt 69.602 con; trong đó, các huyện miền núi đưa đàn bò tăng hơn trước 2.000 con (nhờ vốn hỗ trợ của Nhà nước). Đàn heo từ 105.302 con năm 1992 lên 112.240 con năm 1994, năm 1995 giảm 23.000 con (do giá bán thấp, giá thức ăn gia súc tăng); đàn gia cầm ổn định và có phát triển về số lượng. Một số giống mới cho năng suất cao (đàn bò, gà, vịt, heo) lai tạo có hiệu quả. Tuy nhiên trong nông nghiệp, vấn đề chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân còn lúng túng, nhất là khi hợp tác xã chuyển đổi cơ chế hoạt động. Sâu, dịch, bệnh cây trồng và gia súc diễn biến phức tạp là một trong những nguyên nhân làm giảm an toàn lương thực và thực phẩm, khiến cho nhiều hộ nông dân bị thiệt hại trong sản xuất.
Kinh tế lâm nghiệp được Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo thực hiện tổ chức lại các lâm trường, gắn việc khai thác với lâm sinh; lập một số xí nghiệp chế biến gỗ. Tiến hành kiểm kê rừng tự nhiên trong cả tỉnh, xác định diện tích rừng và đất rừng 156.835 ha, rừng phòng hộ 42.000 ha, rừng đặc dụng 4.000 ha. Tổ chức một bước sắp xếp lại 3 cơ sở chế biến gỗ quốc doanh, 2 cơ sở song mây, cấp 50 giấy phép chế biến lâm sản, 100 giấy phép làm mộc dân dụng. Trong số này, diện tích rừng giao cho các lâm trường quản lý 116.624 ha (chiếm 74% diện tích rừng tự nhiên trong tỉnh). Năm 1991 khai thác được 23.000 mét khối gỗ; trồng rừng được 542 ha; trồng cây phân tán 1.300.000 cây. Đến năm 1994 khai thác 38.000 mét khối gỗ các loại; trồng 2.980 ha rừng tập trung và 3 triệu cây phân tán, đạt 90% kế hoạch. Giao khoán cho dân quản lý 3.370 ha rừng, đạt 100% kế hoạch.
Thực hiện đóng cửa rừng (không cho khai thác rừng tự nhiên) tại một số địa phương như Cam Ranh, Khánh Sơn, Vạn Ninh, tổ chức trồng thử nghiệm cây đặc sản như quế, gió bầu; hạn chế lưu thông gỗ tròn, gỗ nguyên liệu. Lâm sản khai thác được đưa một phần sang chế biến hàng xuất khẩu. Riêng chế biến của quốc doanh, năm 1991 xuất khẩu trị giá 100.000 USD, năm 1993 đạt 1.240.000 USD, năm 1994 tăng lên 1.600.000 USD. Trong khi đó các ngành và các thành phần kinh tế xuất khẩu lâm sản đạt 4.500.000 USD. Sử dụng các nguồn vốn của chương trình PAM và 327 duy trì và phát triển phong trào phủ xanh đất trống đồi trọc, số hộ nông dân xin nhận đất trồng rừng từ 1.700 hộ năm 1993 lên 2.700 hộ năm 1994. Tổng diện tích rừng mới trồng đến năm 1995 là 16.000 ha. Nhiều hộ ở Cù Hin (Cam Ranh), Sơn Lâm (Khánh Sơn) coi trồng cây bạch đàn, phi lao, điều... là một nghề làm giàu. Ngành lâm nghiệp tuy có bước tiến bộ, song công tác giao rừng, trồng rừng, bảo vệ lâm sinh và việc ngăn chặn nạn khai thác gỗ lậu còn hạn chế và hiệu quả thấp.
Về kinh tế thủy sản, Tỉnh ủy chỉ đạo thực hiện phát triển các phương tiện đánh bắt hải sản. Số tàu thuyền ngày càng nhiều. Riêng ghe thuyền sản xuất thủ công năm 1990 là 1.490 chiếc, năm 1994 lên 1.560 chiếc. Công suất tàu gắn máy từ 54.100 CV năm 1992 lên 73.125 CV năm 1994, đến cuối năm 1995 đạt trên 75.000 CV, tăng gần 1,8 lần so với năm 1990. Bước đầu có tàu thuyền đi khai thác ở ngư trường xa dài ngày. Nhờ đó sản lượng khai thác tăng từ 36.910 tấn năm 1991 lên 39.847 tấn năm 1994.
Các cơ sở chế biến hải sản phát triển, mở rộng, một số cơ sở được đổi mới công nghệ và trang bị, sản xuất và chế biến được nhiều mặt hàng chủ lực. Toàn tỉnh có 15 cơ sở chế biến đông lạnh, khả năng cấp đông 89 tấn/ngày. Kho bảo quản 2.500 tấn vẫn còn thừa công suất. Nhờ có cơ sở vật chất được bảo đảm, số hải sản chế biến ngày một tăng. Năm 1994, ngành chế biến đông lạnh xuất khẩu cả tỉnh đạt 2.910 tấn cá, 906 tấn mực, 500 tấn tôm, 535 tấn cá cơm. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, từ 7.279.000 USD năm 1992 lên 26.201.000 USD năm 1993 và 32.083.000 USD năm 1994, chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh. Ngoài ra còn sản xuất phục vụ nội địa hàng năm 4.200.000 lít nước mắm, 58 tấn hải sản khô và 10.000 tấn chượp.
Phong trào sản xuất tôm giống được đẩy mạnh, đảm bảo đủ dùng trong tỉnh và còn phục vụ cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mỗi năm 606 triệu con tôm "pot" trong tổng số 1.270 triệu con sản xuất được trong năm 1994. Từ chỗ năm 1990 chỉ có 16 trại tôm đẻ, năm 1994 cả tỉnh có gần 300 trại với khối tích bể 6.500 mét khối. Nhiều gia đình giàu có nhờ nuôi tôm đẻ, thu hút hàng vạn lao động vào dịch vụ nuôi tôm.
Cùng với phong trào sản xuất tôm giống, tỉnh cũng chỉ đạo đẩy mạnh phong trào nuôi tôm, bắt đầu mở rộng việc nuôi tôm hùm lồng, cá mú. Từ một số gia đình nuôi ban đầu đã kịp thời rút kinh nghiệm mở rộng diện tích. Năm 1992 diện tích nuôi tôm 1.809 ha với sản lượng 1.050 tấn. Năm 1994 diện tích lên 3.588 ha với sản lượng 1.528 tấn. Năm 1995 diện tích nuôi tôm tăng gần 3 lần so với năm 1990. Từ phong trào nuôi tôm rút ra nhiều bài học bổ ích về khai thác tiềm năng, phân bổ lại lao động, quy hoạch và làm giàu bằng thế mạnh kinh tế biển. Một số người bắt đầu chuyển quy trình sản xuất theo hướng công nghiệp thu lợi ích rõ rệt. Tổ nuôi tôm ở Cam Thịnh Đông (Cam Ranh) có 9 ha với quy trình sản xuất mới đạt năng suất 1 tấn/ha/vụ. Tuy nhiên, vấn đề mới đặt ra là phải xây dựng các vùng nuôi tôm như các khu công nghiệp tập trung mới khắc phục được tình hình ô nhiễm môi trường, áp dụng kỹ thuật mới, đầu tư chiều sâu, hạn chế ảnh hưởng môi trường mới có hiệu quả kinh tế cao.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển khá. Thực hiện cơ chế mới, một số xí nghiệp quốc doanh kịp thời chuyển hướng sản xuất kinh doanh, mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết, tự tạo thêm nguồn vốn, thị trường, thay đổi mặt hàng hợp với thị hiếu người tiêu dùng; Theo hướng này, một số hợp tác xã, tổ hợp cơ khí, gỗ, giấy, thêu, đan mây tre cũng được phát triển và sản xuất có hiệu quả. Năm 1992, Tỉnh ủy chủ trương tiếp tục chỉ đạo đầu tư chiều sâu để đổi mới thiết bị, mở rộng liên doanh liên kết trong và ngoài nước, ngân sách hỗ trợ vốn kinh doanh, tháo gỡ bớt nợ ngân hàng, giao vốn cho xí nghiệp, sắp xếp lại sản xuất kinh doanh. Các ngành tiểu, thủ công nghiệp có nhiều cố gắng, duy trì được sản xuất, giá trị tổng sản lượng đạt 345,6 tỷ, trong đó công nghiệp địa phương 282,9 tỷ; khu vực quốc doanh 244,4 tỷ. Công nghiệp quốc doanh địa phương nộp ngân sách chiếm 56% trong tổng thu ngân sách. Tỉnh ủy cũng chủ trương thực hiện đầu tư mở rộng sản xuất và đầu tư mới các xí nghiệp quốc doanh như xí nghiệp đường Khánh Hòa, xí nghiệp đông lạnh Nha Trang, nhà máy bia nước ngọt, nhà máy thủy tinh, tuyển rửa cát, dây khóa kéo Nha Trang, nhà máy bia liên doanh 35 triệu lít/năm... Năm 1993, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng khá, các xí nghiệp quốc doanh địa phương nộp ngân sách chiếm gần 1/2 nguồn thu ngân sách của tỉnh. Trước thử thách của cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp vẫn đứng vững, một số mặt hàng của địa phương sản xuất như thuốc lá, xi măng, nước khoáng, cát, may mặc xuất khẩu, chế biến hải sản, đường, dây khóa kéo... có uy tín trên thị trường và được tiêu thụ khá mạnh. Năm 1994, giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương đạt 313,4 tỷ đồng; một số sản phẩm tăng nhanh so với năm 1993 như thuốc lá tăng 91%, dây khóa kéo tăng 2 lần, may mặc xuất khẩu tăng 57%, xà phòng các loại tăng 122%, xi măng tăng 39%, nước ngọt tăng 25%. Năm 1995, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho một số cơ sở công nghiệp địa phương như Nhà máy gạch Tuy-nen, Nhà máy thủy tinh, Nhà máy đường... năng lực sản xuất công nghiệp được nâng lên. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 21% so với năm 1994, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 24,3%, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,4%. Sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp của tỉnh cơ bản vượt qua thời kỳ khó khăn lúc mới chuyển đổi cơ chế. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn thiếu vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, quy mô nhà xưởng còn nhỏ, máy móc thiết bị quá cũ kỹ, lạc hậu; đầu tư thực sự cho sản xuất còn ít. Mặt hàng tiểu, thủ công nghiệp truyền thống địa phương chưa được khuyến khích phát huy.
Dưới sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành, các cấp, từ cuối năm 1989 nhịp độ xây dựng cơ bản không những được khôi phục mà còn được đẩy nhanh hơn các năm trước. Bằng nhiều nguồn vốn đầu tư như ngân sách của Nhà nước, huy động nguồn vốn liên doanh liên kết và hợp tác quốc tế, vốn tự có của xí nghiệp, vốn của tập thể, cá thể... Năm 1991, tỉnh tập trung xây dựng các công trình sớm phát huy hiệu quả và kết cấu hạ tầng thiết yếu như: hệ thống thủy lợi Đá Bàn, cấp nước Nha Trang, cảng Hòn Khói. Tỉnh Khánh Hòa gọi vốn đầu tư nước ngoài xây dựng xí nghiệp mới, mở rộng sản xuất trên 10 tỷ đồng. Bổ sung 2.025 tỷ vốn xây dựng cơ bản để hoàn chỉnh các công trình đường 2/4, nút giao thông Mã Vòng, xây dựng nhà máy bia. Vốn sự nghiệp kinh tế 4,9 tỷ đồng xây dựng thủy lợi nhỏ, cầu cống, đường xá đem lại hiệu quả thiết thực. Năm 1993, tỉnh đầu tư cho xây dựng cơ bản 66 tỷ 792 triệu đồng , trong đó đầu tư chiều sâu gần 7,4 tỷ đồng. Năm 1995, tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện đạt 104,9% kế hoạch, tăng 23,8% so với năm 1994, hầu hết các công trình thực hiện được chủ trương giảm chi phí, tiết kiệm 5-7%. Có 38 công trình và trên 30 hạng mục công trình của tỉnh được hoàn thành và đưa vào sử dụng, tạo thêm năng lực mới gồm: hệ thống công trình thủy lợi đảm bảo tưới tiêu 280 ha, công trình nước sạch cung cấp 6.000 m3/ngày nước sinh hoạt; xây dựng 954m2 trạm y tế xã, 494 km đường điện trung hạ thế; 27,4 km đường giao thông, 4 cầu, 115 căn hộ chung cư, 641m2 nhà làm việc, 3.922 m2 nhà khác... Cùng năm 1995, nhiều công trình của các cơ quan Trung ương đóng tại địa phương và các công trình liên doanh nước ngoài được khởi công xây dựng, với vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện hơn 100 tỷ đồng.
Tổng các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt 1.400 tỷ đồng, năng lực sản xuất của tất các ngành đều tăng. Hệ thống đường giao thông đô thị và nông thôn, kể cả các bến bãi được xây dựng, cải tạo và nâng cấp một bước, đường ô tô đã đến tất cả các xã. Các phương tiện vận tải của các thành phần kinh tế tăng đáng kể. Điện lưới quốc gia đến tất cả các huyện lỵ và 85/125 xã, phường trong tỉnh. Hệ thống thông tin liên lạc được mở rộng và nâng cấp với thiết bị công nghệ mới, hiện đại. Các huyện đều có tổng đài điện tử, 100/128 xã, phường có máy điện thoại, bình quân 100 người dân có 01 máy điện thoại.
Nhiều cơ sở sản xuất được đầu tư mới hoặc nâng cấp và mở rộng, tạo ra nhiều sản phẩm mới, chất lượng cao, một số sản phẩm có chỗ đứng ở thị trường trong nước và thế giới.
Các công trình phúc lợi công cộng như cấp thoát nước, văn hóa, thể dục thể thao, giáo dục, y tế, phát thanh truyền hình... được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới, góp phần đáp ứng yêu cầu đời sống của nhân dân.
Các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển du lịch và dịch vụ ngày càng nhiều: xây dựng mới và nâng cấp hàng chục khách sạn quốc doanh, tư nhân và liên doanh với các tỉnh, với nước ngoài, thu hút khách hàng năm tăng 20%, trong đó 1/3 là khách nước ngoài.
Du lịch của tỉnh Khánh Hòa được Tỉnh ủy xác định là một ngành kinh tế có nhiều tiềm năng, do đó tiếp tục đầu tư chiều sâu và đầu tư phát triển quy mô rộng hơn. Năm 1994, cơ sở vật chất được tăng cường thu hút số lượng khách đông, trong đó khách quốc tế chiếm 72.500 người, chiếm 28%; nộp ngân sách trên 9 tỷ đồng, tăng 3 tỷ so với năm 1993. Năm 1995, bên cạnh việc đầu tư nâng cấp các khách sạn cũ, xây dựng và đưa vào sử dụng một số khách sạn hiện đại. Ngành du lịch tổ chức được một số dịch vụ sinh hoạt, giải trí đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu khách du lịch trong nước và quốc tế. Tuy số lượng khách đến năm 1995 giảm 11,6% so với năm 1994, nhưng khách quốc tế tăng hơn 33% và số ngày khách quốc tế tăng 28,3%. Tổng doanh thu của ngành du lịch tăng hơn 14% so với năm 1994.
Hoạt động thương mại có tiến bộ. Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp tổ chức và kinh doanh; những công ty hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài được giải thể như các công ty nông sản, trang thiết bị, chế biến thực phẩm, thương nghiệp Vạn Ninh. Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đổi mới phương thức kinh doanh với mục tiêu thực sự có lãi, nhờ đó năm 1991 toàn ngành thương nghiệp quốc doanh thực hiện được 107,7 tỷ đồng (doanh số bán ra) vượt mức kế hoạch, tăng hơn cùng kỳ 60%, thực sự có lãi 1,8 tỷ đồng, góp phần ổn định giá cả thị trường. Thương nghiệp quốc doanh tuy có nhiều khó khăn nhưng đã đi dần vào thế ổn định. Thương nghiệp tư nhân được mở rộng, đến năm 1993 toàn tỉnh có 21.144 hộ tư thương, trong đó 15.883 hộ chuyên nghiệp, doanh thu bình quân gần 4,5 triệu đồng/tháng/hộ. Doanh số bán lẻ tăng 7% so với năm 1992. Năm 1994, tổng mức bán lẻ hàng hóa trên thị trường toàn tỉnh đạt 1.000 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 1993. Thương nghiệp quốc doanh sau một thời gian chao đảo, bước đầu vươn lên thích ứng trong cơ chế quản lý mới, chi phối khoảng 35% các mặt hàng bán buôn như xăng dầu, xi măng, bia, thuốc lá... trên thị trường. Hoạt động phục vụ miền núi có chuyển biến khá hơn trước, bán ra 2,7 tỷ đồng hàng hóa và mua vào trên 800 triệu đồng nông sản các loại của đồng bào miền núi. Năm 1994 có 31/34 đơn vị thương nghiệp quốc doanh làm ăn có lãi. Thương nghiệp tư nhân có 22.170 hộ, tăng 2,7% so với năm 1993, trong đó có 16.610 hộ chuyên nghiệp nhưng chỉ có 13.869 hộ đăng ký kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT.
Kinh tế đối ngoại được mở rộng, từng bước tranh thủ thêm bạn hàng và đối tác, tiền vốn, thị trường và phương thức hợp tác, tiếp nhận được một số thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu đạt 22 triệu USD, bằng 91,66% kế hoạch. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là gỗ xẻ 11.000 mét khối, song mây sơ chế 4.500 tấn, muối 1.500 tấn, hải sản 650 tấn, súc sản đông lạnh 1.000 tấn, cát 40.000 tấn, yến sào, hàng thủ công mỹ nghệ... thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Đài Loan, Singapore, Philippines, Nhật, Canađa, bước đầu tạo được các mối quan hệ kinh tế với một số khách hàng ở các nước này. Kim ngạch nhập khẩu đạt 23 triệu USD (102% kế hoạch). Trong đó, tư liệu sản xuất chiếm 90%, hàng tiêu dùng 10%. Hàng nhập chủ yếu là nguyên phụ liệu, thiết bị sản xuất thuốc lá, dây khóa kéo, nhựa đường, phân bón, dầu Diezen, nguyên liệu sản xuất xà phòng hương phẩm... phục vụ nhu cầu sản xuất trong tỉnh. Năm 1994 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 46 triệu USD (xuất khẩu trực tiếp 41,4 triệu USD), bằng 125% kế hoạch, tăng 25% so với năm 1993. Trong đó, hải sản chiếm 64%, mây 7%, gỗ 2%, cát 2%. Tổng kim ngạch nhập khẩu 43 triệu USD, bằng 122% kế hoạch, tăng 25% so với năm 1993, trong đó máy móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất 66%, hàng tiêu dùng 30%.
Năm 1995, kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển khá hơn, 17 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài (5 cơ sở 100% vốn nước ngoài), với tổng vốn đăng ký là 101.750.000 USD (phía nước ngoài đăng ký 67,3 triệu USD), thu hút 2.500 lao động chủ yếu là sản xuất trực tiếp; doanh thu đạt 6,8 triệu USD, tăng 115% so với năm 1994 (giá trị xuất khẩu là 3,2 triệu USD, tăng 15% so với năm 1994). Song số vốn đầu tư cho mỗi dự án còn nhỏ (5,5 triệu USD/dự án), tỷ lệ rút giấy phép so với số được cấp là 37% và 30,8% về vốn là quá lớn so với cả nước, nên hiệu quả kinh tế xã hội do các dự án đầu tư mang lại chưa cao.
Hoạt động xuất nhập khẩu tăng khá, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 31%, năm 1995 đạt gần 64 triệu USD, tăng 3,8 lần so với năm 1990; nhập khẩu tăng bình quân 75%; kim ngạch nhập khẩu tăng 2,8 lần so với năm 1990.
Công tác tài chính, ngân hàng có tiến bộ. Tỉnh ủy chủ trương chấn chỉnh lại tổ chức và hoạt động của bộ máy tài chính và ngân hàng. Qua cân đối thu chi về tài chính cho thấy, nền kinh tế địa phương có những chuyển biến tiến bộ, mở ra nhiều khả năng tốt cho các năm sau. Năm 1993, thu chi ngân sách đạt khá, trong đó thu ngân sách 275,2 tỷ đồng đạt 140% kế hoạch. Năm 1994, thu ngân sách đạt 372,4 tỷ đồng, bằng 104% kế hoạch (trong đó thu doanh nghiệp địa phương chiếm khoảng 1/2) tăng 33% so với năm 1993. Tình trạng nợ thuế, lậu thuế, không đăng ký kinh doanh, núp bóng quốc doanh khu vực tư nhân vẫn còn phổ biến. Chi ngân sách địa phương 266 tỷ đồng, bằng 117% kế hoạch, trong đó chi xây dựng cơ bản, chi sự nghiệp kinh tế, văn xã, quản lý hành chính khá cao so với năm 1993.
Ngành ngân hàng huy động vốn 350 tỷ, gấp 2 lần năm 1993, trong đó huy động vốn trong dân 40%. Cho vay ngoài quốc doanh gần 400 tỷ đồng để phát triển sản xuất, trong đó số hộ nông nghiệp, ngư nghiệp được vay vốn chiếm trên 73%.
Hoạt động tích cực của ngành tài chính, ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tổng thu ngân sách tăng 11 lần so với năm 1990 (giá hiện hành), chiếm 19% GDP của tỉnh, đóng góp cho Trung ương năm sau cao hơn năm trước và dành một tỷ lệ đáng kể để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Nền kinh tế bước đầu có tích lũy nội bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Năm 1995, Khánh Hòa gia nhập "Câu lạc bộ 500 tỷ".
Từ năm 1989 đến 1995, với việc phát triển kinh tế tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng liên tục cao, từng bước chuyển dịch và hình thành theo cơ cấu kinh tế đã xác định. So với năm 1991, đến cuối năm 1995, trong GDP, công nghiệp từ 33% lên 40%, nông - lâm nghiệp từ 30% còn 24%, dịch vụ và du lịch vẫn giữ ở mức 36%.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, kinh tế nhiều thành phần hình thành phát triển đa dạng, dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu, bước đầu khơi dậy các nguồn lực, tạo ra sự năng động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, trong đó kinh tế quốc doanh chiếm 47,2%, kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 52,8% trong GDP.
Các doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đại bộ phận được sắp xếp và đăng ký theo Nghị định 388-CP. Năm 1995, chấn chỉnh lại theo Chỉ thị 500 của Thủ tướng Chính phủ, có 60% doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi.
Cùng với việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 và Luật đất đai, vai trò tự chủ kinh tế của các hộ gia đình được phát huy, nhiều hộ mở ra hướng làm ăn mới và phát triển khá. Kinh tế hợp tác xã nông nghiệp bước đầu đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh theo hướng kinh doanh tổng hợp và dịch vụ.
Kinh tế tư nhân (cá thể, tư bản tư nhân...) phát triển nhanh, hoạt động dưới nhiều hình thức, nhất là loại hình dịch vụ, đầu tư nhỏ và mau thu hồi vốn.
Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đổi mới kế hoạch hóa và công tác quản lý, từng bước đổi mới theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác kế hoạch hóa chuyển từ tập trung xây dựng chỉ tiêu pháp lệnh và phân bổ vật tư, tiền vốn sang định hướng, xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn, xác định tổng cân đối là chủ yếu. Việc đổi mới tổ chức, vận dụng cơ chế và chính sách về giá, về tài chính, ngân hàng của Trung ương được xúc tiến kịp thời và mạnh hơn, tạo nên sự đồng bộ của cơ chế quản lý kinh tế mới, tạo thuận lợi thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Đồng thời tích lũy thêm kinh nghiệm trong quản lý và điều hành các thành phần kinh tế.
Cùng với chăm lo phát triển kinh tế, công tác văn hóa - xã hội, thực hiện chính sách xã hội được Đảng bộ tỉnh quan tâm, có những chuyển biến tích cực. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, Tỉnh ủy đề ra các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số và kế hoạch hóa gia đình, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, các chương trình giải quyết việc làm. Kết quả thực hiện các chương trình hành động của Tỉnh ủy đều có những tiến bộ đáng kể.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được tỉnh chỉ đạo và đầu tư để tu bổ trường lớp, xóa học ca 3 trong toàn tỉnh. Chất lượng dạy và học ở một số trường có chuyển biến. Cha mẹ học sinh quan tâm hơn đến công tác giáo dục, quan hệ giữa gia đình học sinh và nhà trường chặt chẽ hơn, xuất hiện nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia. Năm 1991, ngành giáo dục bước đầu có sự chuyển biến mới về nề nếp và kỷ cương trong việc dạy và học, từng bước giải quyết những khó khăn về cơ sở vật chất và tập trung đầu tư cho các đơn vị trọng điểm. Xây dựng hoàn chỉnh trường phổ thông trung học chuyên Lê Quý Đôn, trang bị phòng máy vi tính cho trường cấp III Lý Tự Trọng, Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Trỗi... giáo dục ở miền núi được quan tâm nhiều hơn về đào tạo, chế độ chính sách, cơ sở vật chất. Các trường trung học chuyên nghiệp được sắp xếp lại hợp lý. Các chính sách ưu đãi đối với giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi được quan tâm. Toàn tỉnh có 19 học sinh các trường phổ thông đạt các giải trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc. Năm 1993, chất lượng giáo dục được duy trì và phát triển, số trường, số lớp tăng, đạt 20 giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, 05 học sinh đậu thủ khoa vào các trường đại học, cao đẳng. Năm học 1993-1994, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông các cấp và vào đại học khá cao, trong đó có 04 thủ khoa, thi học sinh giỏi toàn quốc đoạt 35 giải. Tỉnh chỉ đạo sửa chữa, xây dựng mới một số trường học, đầu tư gần 5 tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục. Năm 1995, thi học sinh giỏi cấp quốc gia đạt 40 giải, thi học sinh giỏi quốc tế đạt 10 giải. Năm 1995, chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục 56 tỷ đồng, cấp hơn 5,4 tỷ đồng phục vụ xây mới 272 phòng học và cải tạo, nâng cấp 250 phòng học khác. Sự đa dạng hóa các loại hình trường lớp, số học sinh đến trường năm học 1995-1996 tăng nhanh, so với năm học1994-1995 tăng hơn 6%.
Công tác giáo dục, xóa mù chữ được coi trọng. Toàn tỉnh có 5/7 huyện, 102/128 xã, phường được công nhận xóa mù chữ và phổ cập tiểu học theo tiêu chuẩn quốc gia. Trường nội trú cho con em các dân tộc thiểu số được duy trì và phát triển. Phong trào học nghề, ngoại ngữ, tin học được mở rộng, nhất là trong thanh niên. Các trường chuyên, lớp chọn phát triển, chất lượng khá. Công tác đào tạo và đào tạo lại hình thức đa dạng hơn. Đầu tư sửa chữa nâng cấp, xây dựng mới trường lớp nhiều hơn trước, cơ bản chấm dứt học ca 3. Tuy nhiên, giáo dục ở tỉnh Khánh Hòa còn bộc lộ yếu kém cả về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Sự phát triển giữa các vùng còn chênh lệch lớn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo, bố trí chưa cân đối giữa các cấp học, thiếu giáo viên cả số lượng và cơ cấu, nhất là bậc tiểu học. Chưa có biện pháp tích cực để thu hút sử dụng cán bộ trẻ sau đào tạo.
Hoạt động khoa học và công nghệ bước đầu hướng vào nghiên cứu ứng dụng, góp phần phát triển sản xuất. Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh đầu tư và tổ chức phối hợp nghiên cứu về sản xuất tôm giống, con giống, nghiên cứu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, về trồng cây gió bầu, ... mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả của các trang thiết bị khoa học công nghệ hiện đại. Các hoạt động khoa học xã hội được triển khai nghiêm túc và có chất lượng khá, góp phần giáo dục truyền thống và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn. Tuy vậy, thông tin về tiến bộ công nghệ và đổi mới cơ chế quản lý còn ít. Nhận thức về vai trò động lực của khoa học, công nghệ chưa đầy đủ, đầu tư kinh phí còn hạn chế. Chưa có những quy định cụ thể để tập hợp sử dụng tốt đội ngũ cán bộ khoa học trên địa bàn tỉnh.
Công tác y tế, phòng chống dịch bệnh được Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo. Ngành y tế từng bước kiện toàn các cơ sở điều trị, nâng cấp một số bệnh viện và tăng thêm trang thiết bị hiện đại. Chất lượng khám và điều trị khá hơn trước. Y học dân tộc được chú trọng. Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm. Việc tiêm chủng cho trẻ em đạt trên 80%. Bên cạnh hệ thống bệnh viện và trạm xá, mạng lưới y tế tư nhân phát triển, góp phần đáp ứng việc khám và chữa bệnh cho nhân dân. Năm 1991, ngành y tế tỉnh đầu tư sửa chữa bệnh viện Đa khoa, bệnh viện da liễu, bệnh viện Khánh Vĩnh, xây mới 2 trạm y tế và một số phòng khám. Tình hình dịch tả, dịch hạch, sốt xuất huyết giảm so với năm 1990. Tiêm chủng mở rộng đạt 83%, tỷ lệ mắc bệnh của trẻ em giảm rõ rệt. Năm 1993 công tác khám chữa bệnh được quan tâm hơn, số giường bệnh tăng 49,4%, số cán bộ y tế tăng 12,2% so với năm 1992. Năm 1994, ngành y tế tăng cường bổ sung cán bộ y tế cho tuyến huyện xã, tập trung sửa chữa nâng cấp các trạm y tế xã, phường và tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động y tế ở địa phương nông thôn, miền núi. Kinh phí trả lương cho cán bộ y tế cơ sở tăng 19,3% so với năm 1993. Các bệnh viện tỉnh, huyện sử dụng hết công suất giường bệnh, tăng 28,4% so với năm 1993. Công tác bảo hiểm y tế đạt 147% kế hoạch. Dịch sốt rét, dịch hạch, dịch tả... đều được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, tình trạng các loại dịch hoành hành như các năm trước không còn xảy ra. Năm 1995, ngành y tế toàn tỉnh đầu tư 1,2 tỷ đồng và 400.000 USD mua sắm trang thiết bị tiếp tục củng cố mạng lưới y tế cơ sở, tăng cường cán bộ (chủ yếu là bác sĩ) cho tuyến huyện, xã nhằm thực hiện 2 nội dung chính: đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu đến tuyến cơ sở và nâng cao chất lượng công tác, phấn đấu hoàn thành các chương trình y tế quốc gia bảo vệ sức khỏe trẻ em như: tiêm chủng mở rộng, VitaminA, chống suy dinh dưỡng; khống chế dịch sốt rét, số bệnh nhân sốt rét giảm 13,5% so với năm 1994, trong đó số bệnh nhân sốt rét ác tính giảm 14,5%.
Tuy nhiên, công tác y tế cũng còn hạn chế, mặt yếu đáng quan tâm là Y học cổ truyền giảm sút; phong trào vệ sinh phòng bệnh chưa được quan tâm đúng mức, ý thức phòng bệnh của nhân dân còn kém, môi trường sống bị ô nhiễm nặng; một số bệnh viện để tình trạng yếu kém kéo dài cả cơ sở vật chất, tổ chức quản lý và tinh thần thái độ phục vụ; quản lý hành nghề y, dược tư nhân và các bệnh xã hội thiếu chặt chẽ. Việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng thuộc diện chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc còn ở mức thấp.
Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình được coi trọng và đi vào vận động đúng đối tượng, tăng nhanh số người tự nguyện hạn chế sinh đẻ, góp phần làm giảm tỷ suất sinh (từ 32%0 xuống còn 27,5%0). Song, tỷ lệ tăng dân số đến năm 1995 vẫn còn cao (2,21%).
Phong trào thể dục, thể thao tiếp tục duy trì và phát triển, thu hút đông đảo quần chúng, nhất là thanh thiếu niên tham gia. Các đội điền kinh của tỉnh được phát triển và giành nhiều giải xuất sắc trong các kỳ thi đấu toàn quốc. Năm 1991, toàn tỉnh giành 156 huy chương (68 huy chương vàng, 40 huy chương bạc, 48 huy chương đồng) ở hầu hết các môn thể thao được tổ chức trong toàn quốc; trong đó có 1 vận động viên đạt kỷ lục quốc gia, 18 kiện tướng quốc gia, 38 vận động viên cấp 1 quốc gia. Đội bóng đá tỉnh giành cúp vô địch hạng A1, được chuyển lên các đội mạnh. Năm 1994, tỉnh Khánh Hòa đăng cai 12 giải của Trung ương và khu vực, cử các đoàn tham gia thi đấu trong nước đạt 267 huy chương các loại (trong đó có 86 huy chương vàng); 19 vận động viên đạt cấp kiện tướng, 45 vận động viên cấp 1. Năm 1995 hoạt động thể dục thể thao thu hút 43.000 người luyện tập thường xuyên trong 187 câu lạc bộ (vượt 95% kế hoạch). Các đội bóng đá, bóng chuyền của tỉnh được thăng hạng đội mạnh mùa bóng 1995. Các đoàn vận động viên tham gia thi đấu trong nước đạt 192 huy chương (52 huy chương vàng, 61 huy chương bạc, 79 huy chương đồng) vượt chỉ tiêu đề ra 44%. Hai vận động viên của tỉnh (bóng đá và quần vợt) tham gia đội tuyển Việt Nam thi đấu tại Sea Games 18 góp phần vào thắng lợi chung của đội tuyển quốc gia.
Tuy vậy, phong trào và hoạt động thể dục, thể thao ở nông thôn và miền núi còn yếu.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ phong phú hơn về nội dung, đa dạng về hình thức và thể loại, phục vụ được nhiệm vụ chính trị, đáp ứng một phần nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Nhiều hình thức văn hóa truyền thống được khôi phục. Một số di tích văn hóa, lịch sử được tôn tạo và nâng cấp. Các phương tiện thông tin đại chúng được chú ý nâng cao chất lượng, hoạt động có tiến bộ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin cho đông đảo nhân dân. Đến 1995, trên 70% số dân trong tỉnh được xem truyền hình. Đội ngũ những người làm báo, văn hóa phần đông đã khắc phục khó khăn, gắn bó với Đảng, với chế độ và sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Điều đáng quan tâm là công tác quản lý nhà nước về văn hóa, văn nghệ còn lỏng lẻo, chưa ngăn chặn được văn hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường. Các giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc bị xói mòn. Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, các hủ tục mê tín, dị đoan phát triển. Báo chí, văn hóa, văn nghệ thiếu các tác phẩm có chất lượng cao để cổ vũ nhân tố mới, lên án các biểu hiện tiêu cực.
Nhờ đẩy mạnh sản xuất, dịch vụ phát triển giải quyết việc làm cho trên 5 vạn lao động, đời sống nhân dân được cải thiện; số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo, nhất là hộ đói giảm bớt. Đáp ứng khá hơn nhu cầu ăn, mặc, đi lại, học hành, chữa bệnh của nhân dân. Việc xây dựng nhà ở, đường giao thông, điện, nước sạch, trường học, trạm xá ở nông thôn cũng như đầu tư xây dựng nâng cấp thành phố Nha Trang, các thị trấn khá hơn. Nhân dân tự chủ sản xuất, tự do làm ăn theo pháp luật, yên tâm hơn trong việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh.
Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách đối với các đối tượng thuộc diện chính sách; giúp đỡ những người tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa, những học sinh nghèo vượt khó trở lại trường có nhiều tiến bộ.
Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng và bức xúc. Tình trạng thiếu việc làm còn nhiều, thực hiện chính sách công bằng xã hội chưa tốt, số người làm ăn phi pháp giàu lên nhanh chóng; những người có công với nước còn nhiều khó khăn, công tác "xóa đói giảm nghèo" hiệu quả chưa cao; sản xuất và đời sống ở 2 huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh còn bấp bênh, số hộ đói giáp hạt không giảm, đời sống còn rất nghèo.
Tệ nạn xã hội, nhất là nạn tiêm chích ma túy, mại dâm, bệnh AIDS, trộm cắp có xu hướng gia tăng. Vi phạm trật tự an toàn xã hội, tai nạn giao thông xảy ra còn nhiều.
Thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, Tỉnh ủy đã có nghị quyết và kế hoạch triển khai, lập ban chỉ đạo các cấp và có nhiều biện pháp tích cực đấu tranh ngăn chặn.
Quán triệt các Chỉ thị 64-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ Chính trị và Quyết định 114/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng, buôn lậu, ngày 30-6-1993 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa ra Nghị quyết số 10-NQ/TVTU về đấu tranh ngăn chặn, bài trừ tệ tham nhũng và buôn lậu. Thực hiện Nghị quyết 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong tỉnh đều thành lập Ban Chỉ đạo chống tham nhũng, buôn lậu và xử lý các biểu hiện tiêu cực về kinh tế ở tỉnh Khánh Hòa thu được một số kết quả bước đầu.
Tỉnh ủy chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền hướng dẫn dư luận, đổi mới tư duy pháp lý, nâng cao trình độ nghiệp vụ, tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với những hoạt động lệch lạc hoặc có dấu hiệu tham nhũng, buôn lậu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, cấp đất, cấp nhà... Tích cực chấn chỉnh những hoạt động sai nguyên tắc quản lý nhà nước. Số vụ việc được kết luận và xử lý nhiều hơn, nghiêm hơn. Từ năm 1991-1995, phát hiện 224 vụ tham nhũng, 659 vụ buôn lậu, khởi tố và đưa ra xét xử 152 vụ, thu lại tài sản cho Nhà nước hàng chục tỷ đồng. Số đơn thư phát hiện của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên có biểu hiện tiêu cực nhiều hơn trước và cũng được xử lý nhanh hơn.
Tuy nhiên, đấu tranh chống tham nhũng hiệu quả còn thấp, nhiều vụ còn để kéo dài, chậm đưa ra xử lý hoặc xử lý chưa nghiêm; tình trạng lãng phí của công còn lớn; thu hồi tài sản thất thoát còn ít và chậm, tạo ra tâm lý thiếu tin và dư luận xã hội khá phức tạp. Sự chỉ đạo của các cấp ủy chưa kiên quyết và chưa kịp thời. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân chưa mạnh và chưa đều khắp. Sự phối kết hợp của các cơ quan pháp luật chưa đồng bộ, một số cán bộ có chức, có quyền, kể cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, thiếu tu dưỡng rèn luyện, lợi dụng sơ hở trong quản lý để làm ăn phi pháp hoặc tiếp tay cho những kẽ tham nhũng buôn lậu, gây bất bình trong nhân dân nhưng chưa có biện pháp xử lý nghiêm minh.
Thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 19 của Tỉnh ủy về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, công tác an ninh - quốc phòng được chú trọng. Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân cùng với toàn dân thực hiện có kết quả nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đi đôi với củng cố, xây dựng lực lượng và thế trận phòng thủ của địa phương, góp phần giữ vững ổn định về chính trị, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước.
Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội có nhiều cố gắng. Các Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết 19-NQ/TU ngày 23-8-1990 của Tỉnh ủy được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân thực hiện có kết quả. An ninh chính trị tiếp tục được giữ vững. Xuất hiện nhiều địa phương, đơn vị có phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khá hơn trước. Lực lượng công an làm nòng cốt trong việc thực hiện các chiến dịch truy quét và gọi ra đầu thú bọn tội phạm hình sự.
Chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh. Phối hợp với các cấp, các ngành trong đấu tranh và thực hiện các đối sách, biện pháp thích hợp có hiệu quả đối với các loại đối tượng cũ chưa chịu cải tạo, những hoạt động của bọn phản động lợi dụng tôn giáo, những phức tạp về an ninh, trật tự, ngăn chặn hoạt động phá hoại, gây rối, không để xảy ra các tình huống đột biến.
Thực hiện phương án bảo vệ các địa bàn trọng điểm, làm tốt công tác điều tra cơ bản và các biện pháp nghiệp vụ, quản lý, ngăn chặn các hoạt động thu thập tình báo, móc nối cơ sở của người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về nước.
Phối hợp với các cấp, các ngành trong việc đấu tranh chống tham nhũng, bảo vệ tài sản Nhà nước, tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ bí mật Nhà nước. Ngăn chặn và thu giữ nhiều tài liệu chiến tranh tâm lý của địch và nhiều văn hóa phẩm đồi trụy, phản động.
Trong đấu tranh chống tội phạm đã chú trọng cả 2 mặt phòng ngừa và tấn công. Liên tục tổ chức các đợt tấn công bọn tội phạm, nhất là ở các tụ điểm, địa bàn phức tạp, các hoạt động nổi của chúng trong từng thời gian. Triệt phá hàng trăm băng, ổ, nhóm lưu manh, côn đồ. Thụ lý điều tra làm rõ và bắt xử lý hàng ngàn đối tượng, thu hồi tài sản hàng tỷ đồng.
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển với nhiều hình thức. Nhiều điển hình tiên tiến được tổng kết và nhân rộng. Công tác xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh được chú trọng. Tăng cường công tác Đảng, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, phát động phong trào thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Tổ chức bộ máy công an các cấp được đổi mới, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ công tác của từng lực lượng, đơn vị và cá nhân. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy được tăng cường, đảm bảo chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ công an có chuyển biến.
Tuy nhiên, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa đủ mạnh, chưa đều khắp; công tác bảo vệ an ninh, trật tự còn nhiều mặt yếu, sơ hở và mất cảnh giác. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp, tội phạm hình sự có mặt nghiêm trọng. Pháp chế chưa được đề cao, nhiều quy định của Nhà nước không được chấp hành nghiêm chỉnh, trật tự kỷ cương xã hội nhiều nơi còn bị xâm phạm nhưng không được xử lý kiên quyết.
Công tác giáo dục quốc phòng có chuyển biến khá về nhận thức trong lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở. Việc chăm lo giáo dục ý thức quốc phòng trong nhân dân được chú ý.
Thực hiện Nghị quyết 10 của Tỉnh ủy về "xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và an ninh nhân dân", tỉnh tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên, củng cố dân quân tự vệ. Quan tâm xây dựng sức mạnh tổng hợp của khu vực phòng thủ tỉnh và xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền an ninh vùng ven biển, hải đảo ngày càng vững mạnh. Có kế hoạch phòng chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ gắn với phòng thủ địa phương và tổ chức nhiều cuộc diễn tập từ tỉnh đến cơ sở đạt được yêu cầu đề ra.
Ngân sách cho nhiệm vụ quốc phòng địa phương, xây dựng công trình phòng thủ trên một số vùng trọng điểm được đảm bảo. Thực hiện tốt nhiệm vụ đối với huyện đảo Trường Sa. Điều kiện ăn, ở, cơ động của lực lượng vũ trang được cải thiện một bước.
Lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, huyện được củng cố về số lượng và chất lượng. Đội ngũ sĩ quan phần lớn được đào tạo, chất lượng hạ sĩ quan, chiến sĩ được nâng lên.
Việc củng cố và xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được triển khai đều khắp. Đến năm 1995, dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 2,73% so với số dân (năm 1990 là 2,03%), không còn xã phường tỷ lệ dưới 1%. Có 56 xã phường vùng trọng điểm xây dựng được đại đội dân quân tự vệ cơ động. Đảng viên trong dân quân tự vệ chiếm 7,55%.
Công tác dự bị động viên được chăm lo xây dựng nền nếp hơn trước, hàng năm tỉnh quản lý trên 1,2 vạn quân dự bị hạng 1. Công tác giao quân hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu.
Các lực lượng vũ trang của tỉnh thường xuyên hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn đóng quân trên địa bàn tỉnh trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có hiệu quả.
Tuy nhiên, công tác giáo dục quốc phòng chưa thấu suốt đến mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Lực lượng tự vệ cơ quan, xí nghiệp còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Hàng năm việc huấn luyện và hoạt động chỉ đạt từ 30 - 35% đầu mối. Chất lượng tuyển quân còn thấp.
Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, trong 5 năm (1991-1995) Tỉnh ủy ra 03 nghị quyết chuyên đề về quân sự địa phương và 02 nghị quyết về nhiệm vụ an ninh. Nội dung các nghị quyết sát hợp với thực tiễn và thể hiện tính nhạy cảm trước tình hình phức tạp, kịp thời đề ra những chủ trương chống âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực phản động. Xây dựng lực lượng quân sự, biên phòng, công an đủ sức làm nòng cốt trong việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tổ chức diễn tập theo các phương án, xây dựng tuyến phòng thủ, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Chỉ đạo phối hợp các ngành nội chính xử lý một số vụ án điển hình có tác dụng giáo dục và ngăn chặn tội phạm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
* *
*
Từ giữa năm 1989 đến cuối năm 1995, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991) của Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã khắc phục khó khăn; tích cực phát huy nội lực, lợi thế; kiên trì phấn đấu và đạt được những kết quả khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Sản xuất công - nông nghiệp - dịch vụ - du lịch đều phát triển. Tiềm năng về lao động và tài nguyên bước đầu sử dụng có hiệu quả. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được hình thành, vai trò kinh tế quốc doanh được củng cố và từng bước phát huy. Công tác quản lý và điều hành hoạt động kinh tế tiến bộ. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt mức kế hoạch. Đời sống của nhân dân nhìn chung ổn định, một bộ phận được cải thiện. Công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực, dân số và kế hoạch hóa gia đình..., có chuyển biến rõ nét trên một số mặt quan trọng.
Quyền làm chủ của nhân dân bước đầu được phát huy và có thêm những điều kiện bảo đảm. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về đổi mới và chỉnh đốn Đảng thu được những kết quả bước đầu. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có một số chuyển biến, lòng tin của quần chúng đối với Đảng và tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới tăng lên. An ninh quốc phòng được giữ vững trước những diễn biến phức tạp từ bên ngoài và hoạt động phá hoại, gây rối ở bên trong tỉnh Khánh Hòa.
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa với tinh thần tự lực tự cường, xác định cơ cấu kinh tế và đầu tư đúng hướng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, trở ngại, nỗ lực phấn đấu giành được những thành tựu bước đầu. Tuy còn một số mặt hạn chế và khuyết điểm, nhưng những thành tựu là quan trọng, tạo tiền đề để đưa tỉnh Khánh Hòa vững bước vào chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
____________
1. Ngày 26-10-1989, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định cử đồng chí Bùi Hồng Thái, quyền Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa làm Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa.
2. Các mục 1,2,3,4,5 là diễn văn của đồng chí Bùi Hồng Thái, Quyền Bí thư Tỉnh ủy đọc tại lễ tái lập tỉnh 1-7-1989.
3. Gồm: Huỳnh Thanh Bình, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Văn Tự và Nguyễn Bá Cường.
4. Gồm: Phạm Tuấn Kiệt, Trần Minh Duân, Trần Thị Lượng.
5. Gồm: 7 đồng chí được chỉ định tại Quyết định số 661-NQNS/TW ngày 27-4-1989 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Các Quyết định trên lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hoà.
6. Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7 (Số 06-NQ/TU, ngày 13-2-1992). Tài liệu lưu Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hoà.
7. Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7 (Số 06-NQ/TU, ngày 13-2-1992). Tài liệu lưu Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa.
8. Hội nghị họp từ ngày 18 đến 29-6-1992 tại Hà Nội.
9. Hội nghị họp từ ngày 3 đến 11-6-1993 tại Hà Nội.
10. Chương trình số 02-NQ/TU ngày 4-6-1990 của Tỉnh uỷ Khánh Hoà.
11. Đại hội Mặt trận Tổ quốc tỉnh Khánh Hoà nhiệm kỳ 1993-1998.
Tags:
Tác giả:
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Xếp hạng: 0 - 0 phiếu bầu
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (1930 - 2005) (31/01/2018)
- Phụ lục 2 (30/01/2018)
- Phụ lục (30/01/2018)
- Kết luận (30/01/2018)
- Chương XVIII - Đảng bộ Khánh Hòa lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2005) (30/01/2018)
- Chương XVI - Đảng bộ tỉnh Phú Khánh lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (11/1975 - 6/1989) (30/01/2018)
- Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu (23/10/1945 - 12/1946) (30/01/2018)
- Chương V - Xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 10/1945) (30/01/2018)
- Chương IV - Cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám (1940 - 1945) (30/01/2018)
- Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đòi tự do, cơm áo và hòa bình (1936 - 1939) (30/01/2018)