Chương XVIII
ĐẢNG BỘ KHÁNH HÒA LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996-2005)
I. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (1996 - 2000)
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng còn một số mặt chưa vững chắc song đã tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa hăng hái đẩy mạnh phong trào thi đua trên mọi lĩnh vực công tác và đời sống xã hội, nỗ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1991-1995, tạo đà cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa cũng đang đối mặt với không ít khó khăn. Đó là nền kinh tế sản xuất hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vẫn còn mới mẻ; cơ sở vật chất còn yếu kém, đời sống nhân dân nhiều nơi còn khó khăn; tích lũy từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể; do vậy làm hạn chế kết quả đạt được trên một số mặt. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp ra sức chống phá cách mạng nước ta. Đặc biệt, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã tác động trực tiếp đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói chung, đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa nói riêng.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIII
Thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW ngày 9-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, từ ngày 23 đến 26-4-1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIII đã họp với sự tham dự của 298 đại biểu đại diện cho hơn 12.000 đảng viên của Đảng bộ.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIII có nhiệm vụ tổng kết quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên địa bàn tỉnh từ 1991-1995; đánh giá những thành tựu đạt được và chưa được, rút ra nguyên nhân và những bài học, cả ưu điểm và khuyết điểm của công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ qua. Đại hội khẳng định: Trong 5 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa với tinh thần tự lực tự cường, xác định cơ cấu kinh tế và đầu tư đúng hướng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn trở ngại, nỗ lực phấn đấu bước đầu giành được những thành tựu to lớn và quan trọng.
Về mặt kinh tế: Từ năm 1989-1995, nhất là từ khi có Nghị quyết Đại hội VII, kinh tế Khánh Hòa phát triển tương đối toàn diện và liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn tỉnh bình quân hàng năm tăng 13%, gấp 1,9 lần so với năm 1990, bình quân đầu người đạt 3,4 triệu đồng/năm (310 USD).
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, bình quân hàng năm tăng 3,8%, lương thực ổn định. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 21%, tăng gần 2 lần so với năm 1990. Tổng các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sơ sản xuất, kinh doanh khoảng 1.400 tỷ đồng nên năng lực sản xuất các ngành đều tăng. Các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển du lịch và dịch vụ ngày càng nhiều. Hoạt động thương mại có tiến bộ. Thương nghiệp quốc doanh bước đầu thích ứng với cơ chế quản lý mới, thương nghiệp tư nhân phát triển nhanh, đa dạng. Kinh tế đối ngoại được mở rộng. Công tác tài chính ngân hàng có tiến bộ, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu bước đầu khơi dậy các nguồn lực, tạo ra sự năng động thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, trong đó kinh tế quốc doanh đạt 47,2%, ngoài quốc doanh chiếm 52,8% trong GDP.
Cùng với phát triển kinh tế, công tác văn hóa - xã hội, thực hiện chính sách xã hội và việc xã hội hóa một số lĩnh vực đã có những chuyển biến tích cực.
Công tác bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân được chú ý và có những tiến bộ rõ rệt. Công tác kế hoạch hóa gia đình được mở rộng và đi vào vận động đúng đối tượng, đạt kết quả khả quan. Về giáo dục và đào tạo, mạng lưới trường học được sắp xếp lại, đa dạng hóa loại hình giáo dục, số học sinh các cấp học, ngành học đều tăng, chất lượng được nâng lên. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bước đầu hướng vào nghiên cứu ứng dụng, góp phần phát triển sản xuất. Hoạt động văn hóa văn nghệ phong phú hơn về nội dung, đa dạng hơn về hình thức và thể loại, phục vụ được nhiệm vụ chính trị, đáp ứng được một phần nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Về đời sống, nhờ sản xuất, dịch vụ phát triển đã giải quyết được vấn đề việc làm cho trên 5 vạn lao động, đời sống nhân dân được cải thiện, số hộ giàu tăng lên.
Công tác xây dựng miền núi và hải đảo, tỉnh có sự đầu tư và quan tâm đáng kể. Các chương trình kinh tế theo các dự án quốc gia bước đầu thu được kết quả. Đối với hải đảo đã đầu tư một số cơ sở trường học, trạm xá, điện thắp sáng, truyền hình, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại... góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân, nối liền các hoạt động giữa đảo với đất liền. Tuy nhiên, mặt yếu là đời sống đồng bào dân tộc còn quá thấp, số hộ đói lúc giáp hạt không giảm, suy dinh dưỡng, nhất là ở trẻ em còn cao. Việc thực hiện các chương trình còn lúng túng, thiếu đồng bộ, thiếu kiểm tra quản lý chặt chẽ, thiếu cán bộ tại chỗ, vẫn còn hiện tượng du canh du cư, điều kiện vật chất và văn hóa tinh thần còn nhiều khó khăn.
Về công tác an ninh quốc phòng, các lực lượng vũ trang nhân dân cùng với toàn dân thực hiện có kết quả nhiệm vụ an ninh quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đi đôi với củng cố, xây dựng lực lượng và thế trận phòng thủ của địa phương, góp phần ổn định chính trị, phục vụ công cuộc đổi mới. Vấn đề còn hạn chế là một số cấp ủy, ngành chưa quán triệt mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược. Việc kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với phát triển kinh tế có lúc, có việc chưa chặt chẽ. Lực lượng dự bị động viên số lượng đông nhưng quản lý chưa tốt.
Hoạt động của các cấp chính quyền, tỉnh, huyện và cơ sở được xây dựng và củng cố từng bước phù hợp với cơ chế mới. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp có tiến bộ trong điều hành và quản lý theo luật định. Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần chúng có những đổi mới về nội dung và phương thức tập hợp, vận động quần chúng theo tinh thần Nghị quyết TW8B. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, hoạt động của cơ quan dân cử có tiến bộ. Bên cạnh những tiến bộ, việc thực hiện dân chủ, xây dựng chính quyền hoạt động của mặt trận và đoàn thể còn một số tồn tại như: thực hiện dân chủ có mặt còn hình thức, cụ thể hóa quyền làm chủ chậm, ý thức làm chủ của nhân dân chưa cao.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng có những chuyển biến đáng kể. Công tác chính trị tư tưởng đã tổ chức kịp thời cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, chương trình hành động của Tỉnh uỷ; giáo dục bồi dưỡng lý luận chính trị, truyền thống cách mạng; phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của các tổ chức Đảng và quần chúng trong công cuộc đổi mới. Tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ cơ bản được khắc phục.
Về chỉnh đốn công tác tổ chức đạt được một số mặt quan trọng. Đã tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Chỉ thị 14 của Ban Bí thư, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; các tổ chức cơ sở Đảng được chỉnh đốn; cụ thể hóa quy chế làm việc. Tổng số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tăng lên đáng kể (29,7%, so với năm 1990 tăng 12%).
Công tác đảng viên bước đầu có những chuyển biến. Trong số 12.198 đảng viên, phần lớn giữ vững được phẩm chất đạo đức, đủ tư cách đạo đức (khoảng 72,76%). Nhiều cấp ủy Đảng bước đầu làm tốt việc tổ chức và hướng dẫn đảng viên nâng cao trình độ kiến thức, ý thức tự vươn lên.
Đội ngũ cán bộ đã tạo được một số chuyển biến tích cực về thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Các cấp ủy từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và xã hội. Công tác lãnh đạo chủ yếu tập trung vào các vấn đề trọng tâm, đưa ra những định hướng và hành động cụ thể.
Tuy vậy, những chuyển biến trong công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng chưa đồng đều. Hiện tượng mất đoàn kết nội bộ có lúc, có nơi chưa đấu tranh triệt để, tinh thần tự phê bình và phê bình trong nội bộ chưa cao, tình trạng né tránh không dám đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực còn khá phổ biến. Công tác tổ chức còn một số cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng có biểu hiện quan liêu, dân chủ hình thức, kỷ luật lỏng lẻo. Tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể còn cồng kềnh, chưa phân định rạch ròi về chức năng, nhiệm vụ, chế độ trách nhiệm và lề lối làm việc, cải cách hành chính tiến hành chậm và hiệu quả quản lý chưa theo kịp yêu cầu mới, nhiều vụ việc chậm xử lý còn kéo dài, làm tình hình phức tạp thêm.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đại hội rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng cần nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
Hai là, lãnh đạo và chỉ đạo phải nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, đi sâu, đi sát giải quyết vấn đề trọng điểm then chốt nhất, đặc biệt là biện pháp tổ chức thực hiện.
Ba là, đánh giá, bố trí và sử dụng đúng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành và các đơn vị kinh tế trọng yếu là yếu tố hàng đầu quyết định việc ổn định và phát triển mọi mặt của tỉnh nhà.
Bốn là, chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là trong cấp ủy, trong cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.
Năm là, đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải thực sự dựa vào dân. Thường xuyên chăm lo xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở và chăm lo công tác vận động quần chúng. Thực hiện dân chủ hóa xã hội, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, đi đôi với giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ 1996-2000 là:
- Tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế hàng hóa phát triển nhanh chóng, ổn định và lành mạnh, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, có bước tiến đáng kể về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và du lịch.
- Khai thác tối đa khả năng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, với tổng mức trong 5 năm khoảng 6.800 - 7.000 tỷ đồng. Phấn đấu tăng tổng GDP và GDP bình quân đầu người gấp hai lần so với 1995, tính đến năm 2000.
- Mở rộng nhanh quan hệ kinh tế với bên ngoài, hướng mạnh xuất khẩu và nhập khẩu để đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn có sức cạnh tranh.
- Triển khai mạnh mẽ và giải quyết tốt hơn các vấn đề văn hóa, xã hội, trọng tâm là giảm tỷ suất sinh hàng năm trên 0,8%0; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học; giải quyết việc làm mỗi năm 1,2 - 1,5 vạn lao động, không còn hộ đói, giảm hộ nghèo; hạn chế và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng nền văn hóa văn nghệ lành mạnh.
- Triển khai đồng bộ việc cải cách bộ máy hành chính Nhà nước đi đôi với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, thực sự mở rộng dân chủ, gắn liền thực hiện nghiêm minh kỷ luật, kỷ cương, chống tệ tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác.
- Giữ vững và tăng cường ổn định về chính trị, xã hội, tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đề cao cảnh giác và chủ động đối phó với mọi tình huống, trọng tâm là làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
- Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết gắn bó với nhân dân.
Để thực hiện tốt các định hướng, mục tiêu trên, Đại hội đề ra những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể:
Đối với ngành kinh tế để tăng nhịp độ tăng trưởng cần phải tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể như: đẩy mạnh đầu tư phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát huy tiềm năng và nâng cao hoạt động của các thành phần kinh tế; mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài bằng việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và tăng khả năng xuất khẩu; phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và môi trường; tổ chức tốt công việc xây dựng miền núi và hải đảo.
Bên cạnh việc đưa ra các giải pháp kinh tế phù hợp, Đại hội xác định cần phải giải quyết tốt hơn các vấn đề văn hóa, xã hội. Bởi phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội. Về văn hóa, giáo dục và đào tạo phải nhằm nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đào tạo thế hệ nối tiếp, phát triển một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị cho bước tiến mạnh mẽ sau năm 2000, các vấn đề xã hội như việc làm, y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình đều có những định hướng và giải pháp thiết thực như: vấn đề việc làm được ưu tiên hàng đầu thông qua việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, chú trọng xóa đói giảm nghèo, chăm lo tốt đối tượng chính sách; vấn đề y tế coi phòng bệnh là bước đi tích cực và chú trọng thực hiện các chương trình y tế quốc gia. Lĩnh vực đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Để nhiệm vụ này đạt được những chuyển biến thực sự, trước hết các cơ quan Nhà nước phải hoạt động theo quy chế, chức trách và nhiệm vụ, giải quyết tốt và kịp thời các vụ án về tham nhũng, buôn lậu.
Song song với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, nhiệm vụ an ninh quốc phòng được chú trọng đề cao, nhiệm vụ cấp bách là làm thất bại âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Giải pháp cụ thể về an ninh là đổi mới công tác nắm tình hình, tập trung chấn chỉnh công tác quản lý người nước ngoài; tăng cường công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, văn hóa tư tưởng; củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, xây dựng công an nhân dân. Về quốc phòng để thực hiện được mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận phòng thủ vững chắc cần phải tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, tăng cường phòng thủ đề cao cảnh giác, xây dựng dân quân tự vệ, thực hiện tốt công tác động viên quân đội, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho nhu cầu trước mắt và lâu dài.
Cùng với việc thực hiện tốt các nhiệm vụ an ninh quốc phòng là công tác nâng cao hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Các cấp chính quyền cần tiếp tục củng cố xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, trọng tâm là tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà nước, khắc phục thiếu sót, yếu kém xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, lấy dân làm gốc, làm tốt công tác động viên nhân dân hành động cách mạng; đảm bảo quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của mặt trận, đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, khắc phục bệnh quan liêu, hành chính hóa, cứng nhắc, thụ động, nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân; thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Công tác xây dựng Đảng bộ nhiệm kỳ (1996 - 2000) đặt ra những yêu cầu trước mắt: củng cố và tăng cường sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong Đảng và nhân dân; kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tạo chuyển biến mới trong công tác lãnh đạo và tổ chức Đảng; đổi mới công tác cán bộ, làm tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ; nắm vững và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực hiện những yêu cầu trên, Đại hội đề ra những nội dung và giải pháp như sau:
Xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng cần tiếp tục tổ chức cho cán bộ, đảng viên nghiên cứu quán triệt các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh. Giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong nội bộ Đảng, đi đôi với giữ vững kỷ cương và pháp luật. Nâng cao chất lượng báo chí, văn hóa văn nghệ. Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức các mặt cho cán bộ, đảng viên.
Mục tiêu xây dựng Đảng về tổ chức là nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Trên tinh thần đó cần làm tốt một số nhiệm vụ như: tiếp tục khảo sát và đánh giá thực trạng các tổ chức cơ sở Đảng; sắp xếp kiện toàn các ban Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự, Đảng ủy trực thuộc; định kỳ bồi dưỡng kiến thức cho cấp ủy viên, đội ngũ cốt cán; trẻ hóa đội ngũ, tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy Đảng.
Đổi mới và tăng cường công tác cán bộ là công việc có ý nghĩa quyết định đến nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Vì vậy phải tạo sự chuyển biến đúng trong nhận thức, trong thực tế về đánh giá, tuyển chọn và sử dụng cán bộ, phải tiến hành khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ hiện có, kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt ở tỉnh và cơ sở, sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ, đề bạt bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, khuyến khích cán bộ vươn lên đảm nhiệm chức vụ cao hơn. Cần có những quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ cán bộ cho phù hợp với địa phương, tiến hành đánh giá cán bộ hàng năm phải thật sự dân chủ, đúng quy trình, tránh tình trạng phiến diện, thành kiến cá nhân.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm để bổ sung chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp ủy, Đảng đoàn, Ban cán sự, hoàn thiện quy chế hoạt động của mỗi tổ chức, đưa các hoạt động của tổ chức Đảng vào nề nếp, đúng chức năng, rõ nhiệm vụ, có sự phân công và phối hợp hài hòa trong công việc, quy chế về quan hệ lãnh đạo giữa cấp ủy với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể.
Trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, Đại hội nhấn mạnh khâu then chốt quyết định nhất là tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt công tác cán bộ và chính sách đối với cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (khóa XIII) gồm 43 đồng chí. Ban Chấp hành khóa XIII bầu 13 đồng chí vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Thị Hồng Vân được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy1; các đồng chí Nguyễn Thiết Hùng, Nguyễn Văn Tự làm Phó Bí thư Tỉnh ủy; bầu 6 đồng chí vào Ủy Ban kiểm tra Tỉnh ủy.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIII là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị của nhân dân trong tỉnh. Đại hội xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh trong việc tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng tỉnh nhà giàu mạnh, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh thành công tốt đẹp tạo ra sự đoàn kết thống nhất về chính trị tư tưởng trong Đảng bộ và trong nhân dân, quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm cuối thế kỷ XX và vững bước vào thế kỷ XXI.
Nhằm tổng kết nhiệm kỳ Đại hội VII và chặng đường 10 năm đổi mới, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho giai đoạn cách mạng mới, từ ngày 28-6 đến 1-7-1996 tại Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã họp, tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và đề ra nhiệm vụ trọng tâm trong những năm 1996 - 2000 là: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội chỉ rõ: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Tỉnh ủy chỉ đạo đẩy mạnh đầu tư phát triển, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận dụng linh hoạt các chính sách của Trung ương, tỉnh có quyết định đầu tư đúng hướng, chủ động xây dựng cơ chế, huy động được nhiều nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng nhất là các công trình trọng điểm, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong 5 năm (1996-2000), mặc dù ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nhưng toàn tỉnh huy động được 6.900 tỷ đồng, vượt kế hoạch Đại hội XIII đề ra; trong đó vốn ngân sách khoảng 1.000 tỷ, chiếm 14,5%, vốn các doanh nghiệp khoảng 1.000 tỷ, vốn đầu tư nước ngoài khoảng 3.000 tỷ chiếm 43,5%, vốn đầu tư trong dân cư khoảng 1.900 tỷ chiếm 27,5%. Kết quả đầu tư trong 5 năm cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng và sản xuất xã hội, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển, tăng năng lực sản xuất các ngành trọng điểm như sản xuất mía đường, nước khoáng, chế biến cát, thủy sản, phát triển các ngành dịch vụ và du lịch, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ thực hiện các chương trình kinh tế lớn như chương trình phủ điện nông thôn, chương trình giao thông nông thôn, chương trình mía đường, chương trình phát triển kinh tế thủy sản, mạng lưới giao thông được cải thiện tốt hơn, đảm bảo giao thông thông suốt đến các huyện miền núi. Hệ thống thủy lợi được nâng cấp và phát triển trên các vùng, đặc biệt là đưa công trình hồ Cam Ranh vào sử dụng, khởi công xây dựng hồ Suối Dầu, tăng diện tích tưới nước 3.200 ha, góp phần tăng diện tích và nâng cao năng suất cây trồng. Hạ tầng cơ sở ở thành phố Nha Trang, các thị trấn và nông thôn được đầu tư và cải tạo, bước đầu tiến hành quy hoạch một số khu công nghiệp Suối Dầu, Ninh Phước, Ninh Thủy.
Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư phát triển, cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và du lịch, phù hợp với cơ chế thị trường, hình thành một số ngành nghề mũi nhọn, tạo ra các mặt hàng chủ lực mang lại giá trị kinh tế cao. Đến năm 2000, tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp chiếm 36,9%, dịch vụ và du lịch chiếm 34,6%, ngành nông lâm thủy sản chiếm 28,5%.
Thực hiện tốt việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế và mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên đã phát huy tiềm năng và nâng cao hoạt động của các thành phần kinh tế; khơi dậy các nguồn lực xã hội, tạo ra sự năng động, sáng tạo thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Các doanh nghiệp Nhà nước từng bước được sắp xếp lại từ trên 110 doanh nghiệp xuống còn 71 doanh nghiệp, nộp ngân sách hàng năm chiếm 50 -55% tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh. Doanh nghiệp Nhà nước có tác động rất lớn, làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Các thành phần kinh tế khác được tạo điều kiện phát triển, đóng góp tích cực vào việc huy động và phát huy nguồn vốn, sử dụng lao động, kích thích thị trường phát triển; hàng năm đóng góp hơn 10% vào tổng thu ngân sách của tỉnh. Nhờ tác động tích cực của luật doanh nghiệp và việc thực hiện khá đồng bộ, đến năm 2000 toàn tỉnh có hơn 1.100 doanh nghiệp hoạt động (1995 có 547 doanh nghiệp) chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ thương mại, xây dựng, du lịch, giao thông vận tải... kinh tế nông nghiệp bước đầu đổi mới sản xuất kinh doanh theo hướng kinh tế tổng hợp và dịch vụ. Các hợp tác xã nông nghiệp được sắp xếp lại, tiến hành giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ theo Nghị định 64/CP cho trên 90% số hộ, tạo điều kiện phát triển thêm ngành nghề, khuyến khích phát triển kinh tế hộ.
Các tiềm năng và thế mạnh công nghiệp, dịch vụ và du lịch, đánh bắt nuôi trồng thủy sản cũng được chú ý khai thác và phát huy. Ngành công nghiệp trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, việc tiêu thụ một số sản phẩm khó khăn, nhưng do chủ động đầu tư chiều sâu có chọn lọc, năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm của nhiều lĩnh vực công nghiệp tăng lên, cạnh tranh được trên thị trường nên vẫn giữ được nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm là 12,8%, các doanh nghiệp công nghiệp địa phương tiếp tục được tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lựa chọn sản phẩm có thị trường để đầu tư có chiều sâu, đổi mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Các ngành dịch vụ và du lịch có thêm nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh, tích cực cải tiến, nâng cao chất lượng phục vụ, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11,5%. Các lĩnh vực vận tải đều tiến bộ, trong đó áp dụng hình thức chuyển sở hữu phương tiện, tái đầu tư kịp thời nên dịch vụ vận tải hàng hóa đã tăng bình quân hàng năm 15%. Đặc biệt, du lịch là một thế mạnh của Khánh Hòa từng bước được phát triển đa dạng các loại hình, nhất là khai thác du lịch biển đảo, du lịch sinh thái, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, doanh thu du lịch hàng năm 17%. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, hiện đại, tỷ lệ tăng điện thoại trong dân khá cao, bình quân 5 máy/100 dân, riêng Nha Trang 8,37 máy/100 dân.
Nuôi trồng đánh bắt thủy sản phát triển, trong đó nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, diện tích nuôi đến năm 2000 là 7.000 ha, tăng hai lần so với năm 1995. Giá trị sản xuất thủy sản tăng bình quân hàng năm là 11,6%; giá trị xuất khẩu thủy sản chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Kinh tế đối ngoại được mở rộng và có bước tăng trưởng. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chiếm 43,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Thu từ doanh nghiệp vốn nước ngoài và có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16% so năm 1995 (nổi bật là Công ty liên doanh nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin doanh thu đạt trên 70 triệu USD/năm) . Giá trị xuất khẩu bình quân trong thời gian này tăng 22,1%; năm 2000 xuất khẩu đạt khoảng 181 triệu USD, trong đó xuất khẩu địa phương 148 triệu USD, tăng gấp hai lần năm 1995, thị trường xuất khẩu mở rộng đến 45 nước và vùng lãnh thổ, mặt hàng thủy sản xuất khẩu chiếm từ 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Khoa học và công nghệ từng bước trở thành nhân tố quan trọng trong việc tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Do đó, các hoạt động khoa học và công nghệ hướng vào việc nghiên cứu, ứng dụng; các thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại sử dụng ngày càng nhiều và có hiệu quả hơn vào sản xuất, quản lý, đời sống và nghiên cứu.
Việc xây dựng miền núi và hải đảo ngày càng được quan tâm và có nhiều chuyển biến trong nhận thức, chỉ đạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình kinh tế theo các dự án quốc gia (PAM, 327, cho vay vốn tạo việc làm…) bước đầu thu được một số kết quả. Từ 1995 đến 2000, tỉnh đầu tư và hỗ trợ 73 tỷ đồng để xây dựng kết cấu hạ tầng như điện lưới quốc gia (cơ bản hoàn thành phủ điện năm 1999), giao thông, thuỷ lợi, nước sạch... trợ giúp vốn sản xuất và thực hiện chính sách cho vay ưu đãi với hộ nghèo. Một vài nơi chuyển đổi cơ cấu cây trồng như cà phê ở Khánh Sơn, mía ở Khánh Vĩnh, bước đầu thu được hiệu quả.
Đối với hải đảo, tỉnh đầu tư xây dựng nâng cấp một số cơ sở trường học, trạm xá, điện thắp sáng, truyền hình, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại... góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, 5 năm (1996-2000) các mặt văn hóa xã hội cũng có những bước khởi sắc, hàng năm tỉnh dành một tỷ lệ ngân sách đầu tư thích đáng đồng thời kết hợp với việc thực hiện xã hội hóa văn hóa xã hội. Do đó, các hoạt động văn hóa xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được ổn định và cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu mọi mặt của nhân dân. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh và phát triển đi vào chiều sâu đến tận gia đình, địa bàn dân cư làng, xóm và cơ quan, đơn vị.
Hệ thống giáo dục và đào tạo từng bước được quy hoạch, sắp xếp; quy mô và chất lượng tăng lên. Trong 5 năm thành lập thêm 15 trường tiểu học, 16 trường trung học cơ sở, 1 trường dạy nghề ở tỉnh và các trung tâm dạy nghề ở huyện. Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhà trẻ tăng 35,9%, mẫu giáo tăng 7,3%, tiểu học tăng 12,04%, trung học cơ sở tăng 25%, trung học phổ thông tăng 89%, trong đó học sinh phổ thông tăng 55%, chất lượng giáo dục và đào tạo có những tiến bộ khả quan, trình độ dân trí được tăng lên rõ rệt, 100% xã phường đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ, tỷ lệ người biết chữ độ tuổi 15-35 đạt 97,86%. Khoảng thời gian này đầu tư giáo dục chiếm từ 20 -25% tổng chi ngân sách.
Các vấn đề xã hội như việc làm, y tế, xoá đói giảm nghèo, dân số kế hoạch hóa, thể dục thể thao từ sau Nghị quyết 13 cũng được quan tâm và có những chuyển biến đáng ghi nhận.
Việc làm là vấn đề bức xúc nhất và được chú trọng quan tâm hàng đầu. Nhờ tăng đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, sản xuất và dịch vụ nên hàng năm giải quyết việc làm cho 16.000 - 19.000 lao động, giải quyết việc làm cho phần lớn số người trong độ tuổi lao động.
Về y tế, mạng lưới khám chữa bệnh được đầu tư đến cơ sở. Toàn tỉnh có 1.500 giường bệnh, tỉnh xúc tiến xây dựng và sửa chữa nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện, bệnh viện lao, bệnh viện tâm thần, các phòng khám khu vực, bệnh viện tỉnh. Đến năm 2000, 100% xã có trạm y tế, 54 xã có bác sĩ, chiếm 41%; các chương trình y tế quốc gia cũng được triển khai tốt.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả tốt, cơ quan chuyên trách được kiện toàn và hoạt động ổn định, có hiệu quả. Việc thông tin, tuyên truyền, vận động, giáo dục được triển khai trên diện rộng, nhận thức của nhân dân được tăng lên, tỷ lệ sinh hàng năm giảm 1,2%. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm, hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 34%, trẻ em tử vong dưới 1 tuổi còn 3,5%. Các chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện, trẻ dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm chăm sóc.
Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt một số kết quả, nhất là thu hút hầu hết cơ quan, doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh của Trung ương, địa phương và toàn xã hội tham gia, hưởng ứng. Tỷ lệ đói nghèo đến năm 2000 còn 5%, giảm 7,6% so với năm 1996.
Phong trào thể dục, thể thao phát triển khắp các địa phương, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Thể thao thành tích cao, đầu tư cơ sở vật chất và đào tạo tài năng trẻ được quan tâm. Những năm 1996-2000, tỉnh được đánh giá là một trong những địa phương có phong trào thể dục thể thao mạnh.
Trong 5 năm (1996-2000), công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng được các cấp, các ngành quan tâm và đạt một số kết quả. Toàn tỉnh tiến hành 1.036 cuộc thanh tra, phát hiện 77 vụ tham nhũng, khởi tố 67 vụ với 99 bị can, xử lý kỷ luật 338 cán bộ công chức; thu hồi cho nhà nước hàng chục tỷ đồng, hàng trăm ngàn m2 đất.
Khánh Hòa có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng và an ninh của cả nước, vì vậy trong phát triển kinh tế, liên kết liên doanh với trong và ngoài nước, tỉnh luôn chú trọng đảm bảo gắn kết chặt chẽ với quốc phòng - an ninh, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Do xác định vị trí, vai trò quan trọng - địa bàn chiến lược của tỉnh, nên công tác quốc phòng an ninh tiếp tục được củng cố và nâng cao hiệu quả. Khả năng phòng thủ, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, cơ sở vật chất của lực lượng vũ trang được tăng cường. Chất lượng của lực lượng vũ trang, nhất là chất lượng chính trị cao hơn trước. Tỷ lệ dân quân tự vệ trong tổng số dân đảm bảo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững tương đối ổn định. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào gọi thanh niên nhập ngũ, ý thức về chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm trong dân có nhiều tiến bộ, ý thức về xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng an ninh trong cơ quan Nhà nước thường xuyên được coi trọng.
Hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền được nâng cao, vai trò làm chủ của nhân dân được phát huy. Bộ máy, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh thường xuyên được củng cố, kiện toàn và hoạt động có hiệu quả hơn, từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
Nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính được chú trọng và đạt được một số kết quả bước đầu. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thi hành pháp luật có nhiều tiến bộ. Việc thanh tra, kiểm tra kinh tế, giải quyết các yêu cầu chính đáng của nhân dân được quan tâm và giải quyết nhanh, chặt chẽ hơn trên cơ sở quy định của pháp luật.
Vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội của chính quyền các cấp ngày càng thể hiện rõ nét. Năng lực chuyên môn, hiểu biết về quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, công chức được nâng lên một bước.
Nội dung hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể các cấp trong tỉnh đã bám sát nhiệm vụ chính trị, các chương trình kinh tế của địa phương đơn vị. Hình thức, phương pháp vận động, tập hợp quần chúng được quan tâm và đổi mới phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của nhân dân nói chung và đoàn viên, hội viên nói riêng.
Nhiều hội quần chúng, tổ chức xã hội đã quan tâm công tác tuyên truyền, vận động đông đảo nhân dân tích cực tham gia các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo… Tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là ở nông thôn đã có tiến bộ đáng kể.
Công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vừa là yêu cầu trước mắt, vừa là yêu cầu lâu dài đối với Đảng cầm quyền. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy Đảng trong tỉnh thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đề cao sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ. Quá trình chỉ đạo công cuộc đổi mới toàn diện ở địa phương, đơn vị luôn đảm bảo giữ vững tính đảng. Trong sinh hoạt Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình được đảm bảo, tăng cường củng cố về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, chủ trương của Trung ương và Tỉnh ủy; xác định đúng phương châm lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; tăng cường các biện pháp củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Hầu hết đảng viên của Đảng bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, giữ vững và phát huy tư cách người đảng viên cộng sản, tích cực lao động, công tác, học tập, có ý thức kỷ luật tốt, giữ gìn đạo đức, lối sống lành mạnh. Nhiều cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, chống cái xấu, cái ác, góp phần giữ vững đạo đức cách mạng, truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì vậy, lòng tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên vào Đảng, vào công cuộc đổi mới ngày càng được nâng lên.
Tỉnh ủy và các cấp ủy luôn quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết nhất trí. Coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số. Kiên quyết chỉ đạo đấu tranh với những biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật; chấn chỉnh khắc phục các biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ như kéo bè, kéo cánh, cục bộ địa phương, cá nhân chủ nghĩa.
Đến năm 2000, toàn tỉnh có 14 Đảng bộ cấp huyện và tương đương, 40 Đảng đoàn, Ban Cán sự, Ban Đảng trực thuộc Tỉnh ủy; có 584 tổ chức cơ sở Đảng và 15.700 đảng viên; số lượng đảng viên tăng 21,3% so với nhiệm kỳ trước. Qua phân loại, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh và chất lượng đảng viên đủ tư cách được nâng lên rõ rệt. Năm 1995, tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh chỉ đạt 43,06%, năm 1999 tăng lên 61,1%, trong đó 123 chi bộ, Đảng bộ cơ sở đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền được Tỉnh ủy khen thưởng; tỷ lệ tổ chức cơ sở yếu kém giảm, năm 1999 chỉ còn 4,25% (1995 là 13,5%).
Công tác phát triển đảng viên có nhiều tiến bộ. Đầu nhiệm kỳ đến giữa năm 2000, cả tỉnh kết nạp 3.012 đảng viên, tăng 65,3% so với nhiệm kỳ trước. Trong đó 87,6% có học vấn từ cấp ba trở lên và hơn 40% là đoàn viên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Các cấp ủy Đảng thực hiện tốt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ theo chế độ tập thể, đảm bảo dân chủ. Do đó, công tác cán bộ tạo được những chuyển biến tích cực, góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chất lượng chính trị, kiến thức mọi mặt của cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt các cấp tăng lên rõ rệt. Riêng các cấp ủy có trình độ cao đẳng trở lên chiếm gần 77%, trình độ chính trị cao cấp chiếm 70%. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), hầu hết các đơn vị tiến hành xong công tác quy hoạch các chức danh chủ chốt của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng. Việc đánh giá, đề bạt cán bộ bảo đảm đúng quy trình, công tâm, khách quan, trong đó chú trọng xây dựng, đề bạt đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt đảm nhận vị trí chủ chốt. Chính sách đối với cán bộ được quan tâm hơn. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ góp phần tích cực cho việc quy hoạch, bố trí, đề bạt và quản lý cán bộ.
Công tác kiểm tra Đảng có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhất là khi triển khai Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị. Các cấp ủy quan tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn đối với công tác kiểm tra. Ủy ban kiểm tra các cấp hoạt động tương đối nề nếp, bảo đảm đúng quy trình, bám sát nhiệm vụ kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng. Một số vụ việc lớn được kiểm tra và xử lý kịp thời; chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra được nâng lên. Từ 1996-2000, toàn Đảng bộ xử lý bằng các hình thức kỷ luật 679 đảng viên, trong đó khai trừ khỏi đảng 96 trường hợp, 20 trường hợp bị truy tố trước pháp luật.
Tuy mức độ thực hiện khác nhau nhưng các cấp ủy có nhiều đổi mới trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chú trọng xây dựng, cải tiến lề lối làm việc và nội dung sinh hoạt cấp ủy, đổi mới phương thức, quy trình nắm bắt và xử lý thông tin, ra nghị quyết hoặc quyết định xây dựng mối quan hệ làm việc chặt chẽ giữa cấp ủy, chính quyền và đoàn thể nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động xã hội, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cấp ủy, chính quyền các cấp giành nhiều thời gian kiểm tra, thâm nhập thực tế, tiếp xúc với đảng viên và quần chúng để lắng nghe những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng từ cơ sở, qua đó điều chỉnh, bổ sung nội dung lãnh đạo, chỉ đạo được kịp thời.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội khá rõ nét. Tình trạng lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết chung chung được khắc phục; chú trọng nghiên cứu xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, có tính thực tiễn và khả thi, phân công thực hiện rõ ràng.
Đặc biệt, ngày 22-4-1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 106/1999/QĐ-TTg công nhận thành phố Nha Trang là đô thị loại 2 và ngày 7-7-2000, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 21/2000/NĐ-CP thành lập thị xã Cam Ranh đã tạo điều kiện cho Khánh Hòa tiếp tục ổn định và phát triển trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
II. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2001-2005)
Sau 5 năm 1996 - 2000, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng. Bộ mặt của tỉnh từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo ngày càng thay da đổi thịt. Đặc biệt năm 2000, hướng về Đại hội Đảng các cấp, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh tế xã hội của tỉnh, thu ngân sách tăng đưa tỉnh gia nhập "câu lạc bộ 1.000 tỷ".
Tình hình chính trị xã hội trong nước tương đối ổn định. Đất nước đã bước sang thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ của hợp tác, hòa bình và hữu nghị theo xu hướng toàn cầu hóa. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đạt được những thành tựu quan trọng và đang trên đà phát triển.
Tuy nhiên, tình hình đất nước nói chung, Khánh Hòa nói riêng cũng đứng trước những khó khăn, thách thức mới, trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sức mạnh của hệ thống chính trị lãnh đạo đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thế kỷ XXI.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIV
Quán triệt Chỉ thị số 54-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VIII) về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội IX của Đảng. Sau thời gian chuẩn bị tích cực khẩn trương, từ ngày 18 đến 20-1-2001 tại thành phố Nha Trang, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XIV được tiến hành. Dự Đại hội có 298 đại biểu chính thức, đại diện cho gần 16.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Dự Đại hội còn có các đồng chí lãnh đạo các Ban Đảng ở Trung ương, các đồng chí nguyên là Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy các thời kỳ, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí lãnh đạo sở, ban ngành, đoàn thể, đại diện các đơn vị quân đội đóng trên địa bàn tỉnh.
Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (1996-2000), Đại hội nêu rõ: Trong vòng 5 năm (1996-2000), bên cạnh những thuận lợi, nền kinh tế - xã hội toàn tỉnh phải vượt qua những khó khăn thử thách, đó là những yếu kém của nền kinh tế tiếp tục bộc lộ, thiên tai gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã đoàn kết nhất trí, phát huy tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì phấn đấu để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện, đạt được một số thành tựu quan trọng trên lĩnh vực phát triển kinh tế, ổn định chính trị, củng cố an ninh quốc phòng và công tác xây dựng Đảng.
Về kinh tế có sự tăng trưởng khá. Các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm bước đầu đạt được một số mục tiêu, cụ thể là chương trình phủ điện nông thôn, đưa điện lưới quốc gia đến 100% xã nông thôn, đồng bằng, miền núi, xã đảo; 97% số hộ ở nông thôn, 95% số hộ ở đồng bằng, 85% số hộ ở miền núi của tỉnh và một số đảo xa cũng đã có điện. Chương trình giao thông nông thôn, tuy mới triển khai được hai năm nhưng hầu hết đường liên thôn, liên xã được mở rộng, một phần được rải nhựa, đường ô tô đến các thôn trong tỉnh, kể cả miền núi thuận lợi hơn. Chương trình mía đường đạt được một số kết quả bước đầu như diện tích nguyên liệu được mở rộng, thiết bị chế biến được đầu tư hiện đại hơn. Chương trình kinh tế thủy sản đã khơi dậy được nội lực lớn trong dân, nhất là đầu tư vào nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả cao. Việc thực hiện được một số mục tiêu của các chương trình kinh tế trọng điểm đã thúc đẩy GDP tăng bình quân hàng năm 8,2%, thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh năm 2000 đạt 401 USD/người, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 12,8%. Tổng nguồn vốn đầu tư trong 5 năm đạt 6.900 tỷ đồng.
Văn hóa, xã hội được tỉnh chú trọng chăm lo phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Ngân sách hàng năm được dành một tỷ lệ thỏa đáng cho lĩnh vực văn hóa, đặc biệt cho chương trình phát triển giáo dục - đào tạo và xóa đói giảm nghèo, các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người có công được giải quyết có hiệu quả. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân, dân số kế hoạch hóa gia đình, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, phát thanh truyền hình, thể dục thể thao, chăm sóc và giáo dục trẻ em đạt được những kết quả thiết thực. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân kể cả vùng nông thôn, miền núi, hải đảo có bước cải thiện đáng kể. Bộ mặt thành thị, nông thôn, miền núi có sự thay đổi và khởi sắc rõ rệt.
An ninh chính trị, quốc phòng được đảm bảo ổn định. Khả năng phòng thủ, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, cơ sở vật chất của lực lượng vũ trang được tăng cường; bộ máy cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật thường xuyên được củng cố và hoạt động có hiệu quả hơn; công tác cải cách hành chính có tiến bộ; công tác phòng chống tham nhũng được các cấp, các ngành quan tâm đạt một số kết quả.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị không ngừng được tăng cường, tạo ra sự đoàn kết nhất trí cao trong Đảng bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ được giữ vững, tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc, tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tăng lên. Công tác phát triển Đảng, kiểm tra Đảng có tiến bộ, các cấp ủy có nhiều đổi mới trong chỉ đạo và điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị, bộ máy chính quyền các cấp được củng cố, cải cách hành chính được chú trọng. Hoạt động của Mặt trận và đoàn thể các cấp trong tỉnh bám sát nhiệm vụ chính trị, các chương trình kinh tế của địa phương, đơn vị.
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu đạt được nói trên trước hết có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo thường xuyên của Bộ Chính trị, Chính phủ, sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương. Sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đoàn kết nhất trí cao đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội với tinh thần chủ động, vận dụng linh hoạt các chủ trương của Trung ương. Bên cạnh đó, tỉnh coi trọng việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, coi công tác cán bộ là yếu tố quyết định cho sự đổi mới, bố trí đúng người, đúng việc, đồng thời tăng cường bồi dưỡng cán bộ, đảng viên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những khuyết điểm, thiếu sót, đó là: nền kinh tế hiệu quả mang lại chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh, phát triển chưa vững chắc. Tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi nhất là mại dâm, ma tuý, HIV, nạn cướp giật, phá rừng, khai thác lâm sản trái phép, đánh cá bằng chất nổ và sử dụng các phương tiện hủy diệt khác trên biển vẫn chưa giảm. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, các mặt khác thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội chưa đem lại nhiều kết quả.
Công tác đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại và lãng phí tuy có một số kết quả và tiến bộ hơn trước, song nhìn chung hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng sự đòi hỏi của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức rõ các nguy cơ, thách thức đối với đất nước, thiếu rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước không cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cơ sở Đảng còn yếu. Bộ máy một số cơ quan trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ chồng chéo, kém hiệu lực; cải cách thủ tục hành chính còn chậm.
Đại hội chỉ rõ những nguyên nhân của thiếu sót. Trước hết là do một số cấp ủy chưa nhận thức đúng mức nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội phải luôn luôn gắn bó hữu cơ với công tác xây dựng củng cố hệ thống chính trị. Các khâu kiểm tra, giám sát các chương trình hành động, nghị quyết của cấp ủy cấp trên chưa thực sự có hiệu quả. Thứ hai, vai trò quản lý nhà nước của các cấp chính quyền trong tỉnh đối với mọi mặt của đời sống xã hội chưa toàn diện. Công tác quản lý Nhà nước đối với các thành phần kinh tế còn yếu kém, có lúc, có nơi còn buông lỏng. Thứ ba, cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước đối với kinh tế - xã hội chưa kịp thời, đồng bộ và đủ mạnh. Tỉnh cũng chưa có những chủ trương, biện pháp đồng bộ, cụ thể, đúng mức để tạo ra động lực, khơi dậy sự năng động của các thành phần kinh tế. Thứ tư, trình độ của đội ngũ cán bộ nhìn chung còn hạn chế trước tình hình nhiệm vụ mới, nhất là những yêu cầu của nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ tỉnh trong 5 năm (2001-2005) là quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, tăng cường lãnh đạo, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tăng tốc độ phát triển kinh tế, trên cơ sở phát huy nguồn lực của nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ, du lịch - nông nghiệp. Coi trọng việc phát triển kinh tế đi đôi với từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Coi trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh. Giữ vững ổn định chính trị, xây dựng củng cố an ninh - quốc phòng ngày càng vững mạnh. Phấn đấu xây dựng Khánh Hòa thành một tỉnh phát triển mạnh trong khu vực.
Đại hội thông qua những mục tiêu cụ thể về kinh tế, văn hóa, xã hội, về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Từ đó xác định những nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là:
- Đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Cụ thể là xây dựng các chương trình kinh tế trọng điểm như: phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu (2001-2010) trong phát triển nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp xây dựng "dự án phát triển giống mới có năng suất và hiệu quả kinh tế cao" (2001-2005), trong phát triển kinh tế thủy sản nghiên cứu, xây dựng hoàn chỉnh và tổ chức triển khai đồng bộ "chương trình phát triển du lịch", "dự án giải tỏa lòng sông, bờ sông ở đô thị", dự án thoát nước thành phố Nha Trang.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước; tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ.
- Phát triển văn hóa, xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
- Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi, hải đảo. Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội; tiến hành quy hoạch đất đai, định canh định cư, giao đất khoán rừng, định hướng sản xuất, chăn nuôi, phát triển các ngành nghề phù hợp và đạt hiệu quả để bộ mặt miền núi và hải đảo ngày một khởi sắc, thu hẹp dần khoảng cách mức sống, mức hưởng thụ thành quả kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, các hiện tượng quan liêu, tiêu cực, chỉ đạo các cơ quan Nhà nước đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính, phát huy dân chủ ở từng cơ sở đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
- Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, toàn diện, tăng cường giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
- Tiếp tục hoàn thiện bộ máy Nhà nước, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Quan tâm xây dựng và củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII). Phát huy vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tăng cường vai trò chủ động của cấp chính quyền cơ sở trong công tác quản lý nhà nước trên địa bàn.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Các cấp ủy phải nắm vững đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng về công tác vận động quần chúng, không ngừng tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Chính quyền, đoàn thể các cấp phải thường xuyên chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong toàn dân.
- Tăng cường thực hiện, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; coi trọng xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đại hội nhất trí về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ 2001 - 2005: GDP tăng bình quân hàng năm 9-10%; thu nhập bình quân đầu người đến 2005 đạt khoảng 585USD, tốc độ sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13-14%, tốc độ phát triển dịch vụ du lịch tăng bình quân hàng năm 10 - 11%; tổng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp tăng bình quân 3,5 - 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 1.200 - 1.300 triệu USD; tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm 700 - 800 triệu USD, tỷ lệ huy động ngân sách trong GDP 18 -19%, đến năm 2005 thu ngân sách địa phương bằng 1,6 lần so với năm 2000; huy động vốn đầu tư toàn xã hội 13.500 - 14.500 tỷ VNĐ, chiếm 30% GDP, vốn trong nước chiếm 60-65%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 35-40%; giảm tỷ suất sinh hàng năm 0,4%0, tốc độ tăng dân số đến năm 2005 xuống 1,21%; giải quyết việc làm mới hàng năm 20-22 nghìn lao động; tỷ lệ người đang độ tuổi lao động được đào tạo nghề 25%; đến 2005 không còn hộ đói, giảm hộ nghèo còn 5-6%, 95% dân cư được dùng nước sạch qua lắng lọc; 100% xã phường được trang bị đủ dụng cụ y tế cần thiết cho khám chữa bệnh, 85% số xã có bác sĩ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 25%; đến năm 2005 có 70% số xã, phường hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, 90% cơ quan, 70% hộ gia đình, 40% làng xóm, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa.
Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu trên. Đại hội đề ra những giải pháp cụ thể cho từng ngành kinh tế, từng mặt đời sống xã hội. Đồng thời chủ trương tiếp tục thực hiện các chương trình kinh tế đã triển khai, xây dựng và tổ chức thực hiện một số chương trình kinh tế - xã hội và các dự án trọng điểm như: Chương trình kiên cố hóa kênh mương các công trình thủy lợi (2000-2005); chương trình phát triển du lịch (2001-2005 và 2006-2010); chương trình phát triển miền núi và hải đảo từ 2001-2005; chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu (2001-2005 và 2006-2010); chương trình phát triển nhà ở (2001-2005 và 2006-2010); chương trình phổ cập trung học cơ sở (2001-2005 và 2006-2010); chương trình bồi dưỡng đào tạo cán bộ và đào tạo nghề (2001-2005 và 2006-2010); dự án thoát nước thành phố Nha Trang (2001-2005 và 2006-2010); dự án quy hoạch và xây dựng lòng sông, bờ sông các giai đoạn qua thành phố, thị trấn (2001-2005 và 2006-2010); dự án phát triển giống mới có năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIV (nhiệm kỳ 2001-2005) gồm 43 đồng chí. Ban Chấp hành Đảng bộ bầu 13 đồng chí vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Văn Tự được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy2, các đồng chí Bùi Mau, Phạm Văn Chi được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy; bầu 7 đồng chí vào Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV thành công có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa. Đây là Đại hội đầu tiên của thế kỷ và thiên niên kỷ mới. Thành công của Đại hội thể hiện sự đoàn kết thống nhất cao trong Đảng bộ và nhân dân quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, cần kiệm và năng động sáng tạo đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng tỉnh giàu mạnh và phồn vinh, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh được xây dựng và tổ chức thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Việc cụ thể hóa nghị quyết của Đảng bằng các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng là sự sáng tạo của Đảng bộ Khánh Hòa những năm đầu thế kỷ XXI.
Khánh Hòa có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan khí hậu, bờ biển có nhiều cảnh đẹp, nhiều vịnh, nhiều đảo, bãi tắm..., có hệ thống giao thông thuận lợi, nằm trên trục giao thông quan trọng của cả nước gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường hàng không cho phép phát triển ngành du lịch mang lại hiệu quả cao.
Với vị trí của du lịch trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh coi dịch vụ, du lịch là bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, từ đó luôn quan tâm tạo điều kiện để phát triển ngành du lịch. Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 2 (tháng 2 năm 2001) thông qua chương trình phát triển du lịch Khánh Hòa đến 2010. Mục tiêu đề ra: Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đạt 5.000 phòng, 11.000 giường, 230 xe, 140 tàu thuyền du lịch vào năm 2005, đến 2010 đạt khoảng 5.800 phòng, 13.000 giường, 300 xe, 180 tàu thuyền du lịch.
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân từ 9-10% năm, chiếm tỷ trọng 36% trong GDP của dịch vụ - du lịch, đón 700.000 khách (trong đó có 240.000 khách quốc tế), doanh thu đạt 320 tỷ đồng vào năm 2005. Năm 2010 đón 1 triệu khách (khách quốc tế 480.000), doanh thu đạt 500 tỷ đồng.
Từ đó tạo việc làm cho 4.120 người lao động vào năm 2005, 7.250 người vào 2010 trong ngành du lịch cũng như việc làm cho lao động xã hội... phục vụ du lịch, đảm bảo hiệu quả về mặt xã hội bằng cách đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nâng cao các tiêu chuẩn ngành, trình độ dân trí, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần làm tốt công tác huy động các nguồn vốn, với tổng vốn đầu tư cho toàn bộ chương trình là 3.526 tỷ đồng, giai đoạn 2001-2005 là 1.621 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách tỉnh cấp 190 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp 1.429 tỷ, vốn khác 1,6 tỷ.
Chương trình phát triển du lịch được đề ra cụ thể trên nhiều mặt, về kinh phí đầu tư, công tác quy hoạch, xây dựng, phát triển năng lực kinh doanh, công tác thông tin, quảng bá, tiếp thị, xúc tiến du lịch; phát triển loại hình du lịch văn hóa; bảo vệ môi trường du lịch; công tác tổ chức cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí.
Hội nghị cũng đề ra những giải pháp cụ thể để phát triển du lịch. Gắn thực hiện chương trình phát triển du lịch với chương trình kinh tế - xã hội khác như chương trình kinh tế biển, chương trình xanh, sạch, đẹp văn minh... và các dự án trọng điểm đầu tư cơ sở hạ tầng bảo đảm tính đồng bộ, hài hòa và tiết kiệm vốn đầu tư.
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã xác định phải nghiên cứu, xây dựng hoàn chỉnh và tổ chức triển khai đồng bộ Chương trình kinh tế biển (2001 - 2010). Chương trình nêu rõ: Khánh Hòa nằm trong vùng cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi, tiến ra có thể khai thác nguồn lợi biển Đông, lùi lại có thể trấn giữ và bảo vệ dải ven biển. Các đảo ven bờ vịnh Cam Ranh, vịnh Vân Phong, đầm Nha Phu, Thủy Triều là những vị trí hết sức thuận lợi cho nghề cá ven bờ, phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phát triển du lịch biển và đường thủy nội địa. Khánh Hòa lại được quản lý, khai thác quần đảo Trường Sa, một vùng biển đầy tiềm năng và triển vọng để tỉnh vươn ra làm chủ biển khơi.
Tỉnh ủy chỉ rõ nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế biển của tỉnh Khánh Hòa đến 2010 là: Tập trung đầu tư tạo bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế biển, đạt mức tăng bình quân của các ngành kinh tế biển là 15-20% năm. Xây dựng nền kinh tế biển Khánh Hòa thực sự là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển với tốc độ cao. Phát triển mạnh một số ngành kinh tế biển quan trọng như giao thông vận tải biển, Khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản, du lịch và dịch vụ biển... tạo thành một số mũi nhọn, có kỹ thuật - công nghệ hiện đại, có giá trị xuất khẩu lớn lấy xuất khẩu thủy sản làm trọng tâm, ổn định đủ sức đứng vững và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đổi mới cơ cấu kinh tế vùng biển và ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng cường khai thác thế mạnh và tiềm năng trên địa bàn, phát triển toàn diện kinh tế biển đi đôi với ưu tiên một số ngành và sản phẩm mũi nhọn, quan trọng.
Phát huy tính năng động của các thành phần kinh tế đầu tư vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Trong đó, kinh tế quốc doanh nắm những vị trí then chốt; đổi mới kinh tế hợp tác xã; khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư, kể cả liên doanh với nước ngoài.
Coi trọng đào tạo kỹ thuật và nghề nghiệp cho người lao động, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh và khoa học kỹ thuật phù hợp với đặc điểm và yêu cầu phát triển kinh tế biển.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế biển với bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái trong toàn bộ và trong từng công việc, đảm bảo sự phát triển bền vững của biển, ven biển và các đảo.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế biển với củng cố quốc phòng và an ninh chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển.
Chương trình kinh tế biển đến năm 2010 là những chương trình tổng hợp một số ngành lĩnh vực liên quan. Tổng nguồn vốn đầu tư huy động cho chương trình trên 4.000 tỷ đồng. Trong đó, thủy sản 2.200 tỷ, du lịch biển 1.493 tỷ, giao thông vận tải biển 400 tỷ, an ninh phòng tuyến biển 5 tỷ đồng.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ các mục tiêu trên, Tỉnh ủy đề ra những giải pháp cụ thể về công tác quy hoạch; về khoa học công nghệ; về bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn lợi thủy sản; về quốc phòng an ninh và tổ chức quản lý Nhà nước đối với kinh tế biển; về xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển và về đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành. Gắn kết chặt chẽ việc thực hiện chương trình kinh tế biển với các chương trình kinh tế - xã hội khác như: Chương trình phát triển du lịch biển tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu 2001-2010, chương trình nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2001-2010, chương trình kiên cố hóa kênh mương các công trình thủy lợi từ 2001-2005, chương trình phát triển miền núi, hải đảo...
Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 3 (khóa XIV) họp từ ngày 26 đến 29- 6 - 2001, trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu của tỉnh thời gian qua, thông qua chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu 2001-2010.
Phương hướng phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là phát huy cao độ nguồn nhân lực có lợi thế của tỉnh, phát triển nhanh có hiệu quả sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng thiết yếu và đẩy mạnh xuất khẩu. Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu trong tổng thể phát triển kinh tế của tỉnh, vùng và cả nước, theo định hướng kinh tế mở, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Chuyển mạnh từ sản xuất sơ chế sang tinh chế. Trên cơ sở những ngành hàng vốn là thế mạnh của tỉnh đã có thị trường tương đối ổn định, tập trung vào các giải pháp đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tạo được hiệu quả kinh tế vững chắc. Đồng thời, nghiên cứu để phát triển một số ngành hàng mới nhưng phải cân nhắc kỹ về thị trường tiêu thụ. Tạo điều kiện phát triển vùng nguyên liệu nông, lâm, thủy sản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, đưa sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu gắn với việc bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái và đảm bảo an ninh- quốc phòng.
Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu cần đạt các mục tiêu về kinh tế và mục tiêu về xã hội. Về kinh tế, phấn đấu đến năm 2005 đạt giá trị sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu từ 4.200 đến 4.400 tỷ đồng, chiếm khoảng 75% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Năm 2010 là 7.400-7.600 tỷ đồng. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 là 1.200 - 1.300 triệu USD, giai đoạn 2006-2010 là 2.400 - 2.600 triệu USD.
Về mục tiêu xã hội, cần đáp ứng được nhu cầu hàng tiêu dùng cho nhân dân. Khôi phục và phát triển một số làng nghề truyền thống ở nông thôn, vùng ven biển nhằm thu hút lao động, giải quyết việc làm, góp phần đào tạo nghề cho người lao động.
Nội dung chủ yếu của Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu bao gồm: Phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh, chuyển nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, góp phần giải quyết đời sống nông dân, phát triển nông nghiệp nông thôn; xác định một số ngành hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu mũi nhọn; quy hoạch các ngành, các sản phẩm chủ yếu như: chế biến thủy sản, chế biến nông sản, chế biến lâm sản và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, ngành khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, ngành dệt may, phụ liệu may, giày dép, ngành sản xuất bia, nước giải khát; nước khoáng, ngành sản xuất dụng cụ gia đình, ngành cơ khí, điện, điện tử xuất khẩu.
Để thực hiện phương hướng, mục tiêu và nội dung chủ yếu của chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu, Hội nghị Tỉnh ủy thống nhất đề ra các giải pháp cụ thể về phát triển thị trường, trước hết chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, xây dựng và thực hiện chiến lược thị trường cho từng ngành hàng, mặt hàng... Về phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển thủy lợi, giao thông nông thôn và xây dựng các công trình mới, hoàn thành quy hoạch phát triển mạng lưới điện toàn tỉnh, mạng lưới thông tin liên lạc; phát triển khu dân cư gần các cụm khu công nghiệp... tạo nguồn nguyên liệu với các giải pháp phát triển ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản; quy hoạch và thực hiện tốt các chương trình về nông sản, lâm sản; khai thác và sử dụng hợp lý tối đa nguồn tài nguyên khoáng sản và các nguồn nguyên liệu công nghiệp khác.
Hội nghị nhấn mạnh giải pháp phát triển năng lực sản xuất gồm các vấn đề vốn, chính sách khoa học công nghệ, mặt bằng sản xuất và thuế. Về vốn cần khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Chính sách khoa học công nghệ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mới có quy mô vừa và nhỏ nhưng có công nghệ tiên tiến hiện đại, phù hợp với yêu cầu của thị trường, áp dụng nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật. Mặt bằng sản xuất, triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng đất công nghiệp, tiếp tục đầu tư giai đoạn hai xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Suối Dầu; từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Ninh Thủy, Ninh Phước, khu công nghiệp chế biến thủy sản bắc Hòn Ông. Về thuế, tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế theo luật và các văn bản dưới luật.
Giải pháp đào tạo phát triển nguồn nhân lực bằng các kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ công nhân kỹ thuật đủ năng lực, trình độ để tiếp thu công nghệ, vận hành có hiệu quả các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất. Có chính sách thu hút chuyên gia giỏi, các nghệ nhân, công nhân kỹ thuật bậc cao đến làm việc tại tỉnh và các giải pháp về cải cách hành chính trong cấp đăng ký, cấp phép, tạo môi trường đầu tư thuận lợi...
Từ mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII), Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 8 khóa XIII (họp 14-4-1998) đã thông qua chương trình phát triển giao thông nông thôn đến năm 2000 và 2005, trong đó phấn đấu đến năm 2005 hoàn thành cơ bản giai đoạn đầu của chương trình gồm quy hoạch và cắm mốc lộ giới giao thông, quy hoạch phân bổ lại các điểm tập trung dân cư, xây dựng kênh mương, xây dựng đồng ruộng... Các xã đồng bằng ven biển tập trung nâng cấp, mở rộng các tuyến đường cửa ngõ và các đoạn đường khu trung tâm xã, phấn đấu 50% các đường này được rải nhựa, xây dựng lại một số cầu tạm. Tổng kinh phí đầu tư cho chương trình 689 tỷ đồng.
Nhiệm vụ từ năm 2001 đến 2005 là tiếp tục phát triển mạnh hệ thống giao thông nội đồng; nhựa hóa 50% tổng chiều dài các tuyến đường do huyện quản lý, kiên cố hóa 60% số cầu tạm do huyện quản lý; các xã phấn đấu nâng cấp, mở rộng toàn bộ hệ thống đường nội đồng, đường thôn xóm đạt loại B trở lên, đường vào các xã miền núi cần được nâng cấp mở rộng và làm cầu cống kiên cố, 100% số xã và vùng đồng bằng phải có mạng đường ở khu trung tâm xã đô thị và có đèn đường, thoát nước tốt; 100% tuyến vận tải thủy nội địa có bến lên xuống an toàn, văn minh; xã đảo Ninh Vân và Vạn Thạnh phấn đấu đến năm 2005 có đường ô tô thông tuyến đến trung tâm xã.
Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, các cơ quan chức năng phối hợp với Sở Giao thông vận tải và các địa phương xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu và phương hướng, nhiệm vụ của chương trình với quan điểm phát triển giao thông nông thôn là sự nghiệp của toàn dân, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình, chủ động, sáng tạo, đồng thời hiệp lực phối hợp với chính quyền địa phương, với tập thể trong sự nghiệp phát triển giao thông nông thôn.
Thành lập và củng cố ban chỉ đạo thực hiện Chương trình giao thông nông thôn ở các cấp, các thành viên trong ban chỉ đạo được phân công nhiệm vụ cụ thể. Chương trình có chỉ tiêu cụ thể, được thực hiện qua kế hoạch hàng năm của chính quyền các cấp và sự tham gia của toàn dân theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhân dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần ngân sách, ưu tiên ngân sách cho các xã có khó khăn.
Về các giải pháp, coi trọng giải pháp huy động vốn, thực hiện phân cấp công tác quản lý đầu tư và xây dựng giao thông nông thôn trên địa bàn xã, thị trấn, vừa bảo đảm được nội dung Nghị định 42 và 43/CP của Chính phủ, vừa phù hợp với tính chất công trình giao thông thôn, xã. Tổ chức tốt phong trào thi đua phát triển giao thông nông thôn. Các cấp, các ngành liên quan cần tăng cường công tác quản lý và sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, cùng với vai trò làm chủ của nhân dân là yếu tố quyết định thắng lợi của chương trình.
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp từ 25 đến 27.9.2001, bàn và thông qua chiến lược nhà ở đô thị đến 2010 với mục đích: thông qua các chính sách tạo điều kiện để nhân dân tạo lập nhà ở phù hợp với khả năng của mình. Nhà nước tạo điều kiện để những người có thu nhập thấp cải thiện nhà ở thông qua chính sách đất ở, cho vay vốn, hỗ trợ đầu tư hạ tầng, chính sách điều tiết. Phấn đấu giảm khoảng cách chênh lệch quá lớn về nhà ở giữa các đối tượng.
Nhà ở là tài sản của mỗi gia đình và là cơ sở vật chất to lớn của quốc gia, là sản phẩm hóa của một ngành kinh tế quan trọng. Thị trường nhà ở góp phần vào việc thực hiện mục tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước và nâng cao mức sống của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước phải phát triển và quản lý nhà ở một cách có hiệu quả thông qua hệ thống pháp luật và chính sách phù hợp. Nhà ở không thể tách rời khỏi đất đai, vì vậy việc quản lý nhà ở và đất đai phải thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ và phân công, phân cấp hợp lý. Giải quyết tốt nhà ở phải đi đôi với việc thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình. Việc phát triển nhà ở phải đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, giảm thiểu tối đa mức độ ô nhiễm môi sinh, môi trường.
Hội nghị nêu rõ: Phấn đấu đến năm 2010, mở rộng và phát triển quỹ nhà ở đạt chỉ tiêu sử dụng cao hơn so với hiện tại từ 30-40%. Bình quân diện tích đầu người tối thiểu đạt 11-12m2 cho mỗi người ở đô thị và 15m2 cho mỗi người ở nông thôn. Phấn đấu mỗi hộ tại đô thị được ở trong một căn hộ độc lập với kiến trúc nhà phải đảm bảo tiện nghi, an toàn, kinh tế, thích hợp với điều kiện thiên nhiên, môi trường sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhà nước và xã hội tiếp tục thực hiện chính sách nhà ở đối với người có công, quan tâm xây dựng nhà tình thương, giúp đỡ những đối tượng không thể tự lực tạo lập nhà ở.
Đi đôi với chăm lo phát triển nhà ở, Nhà nước từng bước xây dựng và ban hành đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật về cơ bản chính sách và hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo đưa công tác quản lý vào nề nếp.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển nhà ở đến 2010 và chương trình phát triển nhà ở đến 2020 của tỉnh, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó gồm những giải pháp cơ bản sau:
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Nghị quyết 60/CP về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất nhằm thu hẹp diện nhà ở trái phép, chưa hợp pháp. Tạo điều kiện cho việc cấp giấy phép xây dựng, xin thế chấp tài sản, cho thuê nhà, phát triển thêm quỹ nhà, mở mang kinh doanh phát triển nhà và đưa việc quản lý nhà đất vào nề nếp.
Đẩy nhanh tốc độ tư nhân hóa nhà ở bằng cách bán nhà mới, xây dựng cho dân theo phương thức trả tiền một lần hoặc nhiều lần. Thực hiện chính sách nhà ở với người có công.
Giải quyết thông thoáng việc chuyển dịch sở hữu nhà tư, chuyển nhượng quyền sử dụng nhà công; lập lại sổ quản lý nhà đất, nâng cao chất lượng hiệu quả thông tin và xử lý thông tin về nhà đất.
Thành lập lực lượng thanh tra chuyên ngành, nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời hạn giải quyết khiếu tố về nhà đất. Đẩy mạnh công tác quản lý hành chính, chống phiền hà trong thủ tục cho dân quản lý nhà ở.
Đẩy mạnh công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch chi tiết các khu nhà ở, các điểm dân cư đô thị mới, các khu chung cư; quy hoạch đường nút giao thông phải kết hợp với việc quy hoạch nhà ở theo tuyến phố, gần các dự án phát triển nhà ở với các dự án phát triển xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Đa dạng hóa về kiến trúc kết cấu căn hộ, vật liệu xây dựng để có các căn hộ phù hợp với nhu cầu và khả năng kinh tế của các đối tượng. Đồng thời tăng cường việc giáo dục cho người dân ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương xây dựng, thi công đúng quy hoạch, đúng giấy phép, đúng thiết kế.
Cải tiến công tác cấp giấy phép xây dựng, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng có nhu cầu xây dựng được cấp giấy phép dễ dàng, nhanh chóng.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm và đến năm 2005-2010 có chính sách giao đất, cho thuê đất phù hợp đối tượng sử dụng, áp dụng chính sách lấy đô thị nuôi đô thị, dành những khu đất có khả năng sinh lợi cao chủ yếu đối với các dự án phát triển nhà dọc theo các tuyến phố, để các công ty kinh doanh đầu tư giải phóng mặt bằng xây dựng, đồng thời điều tiết lại một phần lãi tuỳ theo dự án để phát triển hạ tầng xây dựng nhà ở cho người nghèo.
Nguồn tài chính cho phát triển nhà ở của tỉnh gồm: Vốn đầu tư từ ngân sách của tỉnh và Nhà nước hỗ trợ, nguồn vốn huy động của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước thông qua phát triển trái phiếu, huy động tiền ứng trước của khách hàng; vốn huy động từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước; vốn của các cá nhân có nhu cầu về nhà ở; vốn liên doanh liên kết, vốn từ quỹ phát triển đô thị.
Việc đền bù, giải phóng mặt bằng sau khi thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển nhà ở phải theo đúng các quy định của Nhà nước. Tuy nhiên, dự án nhà ở có những đặc thù riêng, do vậy cần xây dựng chính sách giải phóng mặt bằng cho các loại hình phù hợp.
Đối với từng đối tượng có nhu cầu nhà ở khác nhau, Hội nghị đề ra những chủ trương, chính sách ưu tiên, hỗ trợ phù hợp để từng đối tượng có được nhà ở vừa với khả năng của mình. Đặc biệt chú trọng các đối tượng chính sách, cán bộ công nhân viên Nhà nước, người có thu nhập thấp.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá XIV) họp từ ngày 17 đến ngày 18 tháng 12 năm 2001 đã thảo luận và thông qua Chương trình phát triển giống nông - lâm nghiệp giai đoạn 2001 - 2005. Hội nghị đã đánh giá, trong những năm qua, tỉnh đã quan tâm đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất là các tiến bộ về giống vào sản xuất nông - lâm nghiệp; góp phần nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm nông - lâm nghiệp, giúp nông dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, từng bước xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, các loại giống cây trồng, vật nuôi trong tỉnh chủ yếu vẫn là các loại truyền thống, có năng suất và chất lượng thấp, chưa hình thành được hệ thống sản xuất giống đáp ứng yêu cầu đa dạng của nông dân. Hoạt động dịch vụ cung ứng giống còn lúng túng, cơ chế sản xuất kinh doanh chưa thích hợp; công tác quản lý nhà nước về giống còn nhiều bất cập.
Để khắc phục tình trạng trên và xây dựng hệ thông sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi thích hợp với cơ chế thị trường, có khả năng tiếp cận và triển khai các tiến bộ về giống nhằm nâng cao chất lượng, năng suất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tạo cơ sở cho nông nghiệp phát triển bền vững; chương trình cần đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:
- Phấn đấu đến năm 2005, đưa năng suất lúa 2 vụ bình quân trong toàn tỉnh lên 48 tạ/ha, đảm bảo 70 - 80% diện tích lúa 2 vụ được sử dụng giống lúa xác nhận.
- 80% diện tích mía sản xuất đại trà trồng bằng hom giống đảm bảo chất lượng, phấn đấu đưa năng suất mía lên 60 - 65 tấn/ha ở những vùng sản xuất tập trung.
- Đảm bảo đáp ứng 70 - 80% giống cây ăn quả có năng suất, chất lượng cao.
- Tiếp tục Chương trình cải tạo đàn bò, phấn đấu tỷ lệ bò lai đạt 50% tổng đàn; cải tạo đàn heo theo hướng lạc hoá, cung cấp đủ heo đực giống cho các trạm truyền giống, đảm bảo 80% đàn heo nái được thụ tinh bởi giống tốt, thay thế từ 20 - 30% đàn heo nái trong tỉnh.
Để hoàn thành các mục tiêu trên, cần tập trung thực hiện một số giải pháp như: Xây dựng Trung tâm giống nông - lâm nghiệp công nghệ cao, các vườn ươm để tạo thành mạng lưới sản xuất giống chất lượng cao; áp dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống; xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển giống tốt; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên về công tác phát triển giống và tăng cuờng công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực giống.
Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng kiểm điểm công tác giữa nhiệm kỳ họp từ ngày 5 đến ngày 7- 8-2003, hội nghị tập trung kiểm điểm tình hình hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Đảng bộ trong hơn hai năm còn lại của nhiệm kỳ 2001-2005.
Hội nghị thống nhất nhận định: sau hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đã đoàn kết, nhất trí, phát huy tinh thần năng động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thử thách và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nét nổi bật là nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng cao và ổn định. Một số mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra đến nay đã đạt và vượt. Giá trị tổng sản phẩm (GDP) trên địa bàn tỉnh tăng bình quân hai năm 11,05%, GDP bình quân đầu người năm 2002 đạt 504 USD, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 27,2% giá trị sản xuất các ngành dịch vụ - du lịch tăng 16%. Nổi bật trong lĩnh vực thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh liên tục tăng nhanh qua từng năm, năm 2000 vào “Câu lạc bộ 1.000 tỷ”, đến năm 2001 đạt trên 1.300 tỷ, năm 2002 là 1.784 tỷ và dự kiến trong năm 2003 sẽ đạt trên 2.000 tỷ đồng.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, năm 2000 cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp - xây dựng 35,3%, dịch vụ du lịch 37,8% và nông lâm - thủy sản 26,9%. Đến cuối năm 2002, cơ cấu tương ứng là 39,1% - 39,4% và 21,5%.
Bên cạnh đó, lĩnh vực văn hóa- xã hội được thường xuyên chăm lo và có bước tiến bộ mới; công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được đẩy mạnh; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố, trật tự trị an được giữ vững; bộ mặt thành thị, nông thôn, hải đảo, miền núi có nhiều khởi sắc; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao. Đây là những thành tựu quan trọng, tạo nền tảng cơ bản, vững chắc và tiền đề thiết yếu để Khánh Hòa tiếp tục đẩy nhanh tốc độ phát triển trong những năm tiếp theo.
Trên cơ sở đánh giá, dự báo tình hình, Hội nghị đã quyết định một số nhiệm vụ trọng tâm đến cuối nhiệm kỳ 2001-2005 là: tập trung hơn nữa sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, phấn đấu hoàn thành toàn diện những chỉ tiêu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra. Hội nghị đã nhất trí biểu quyết thông qua một số chỉ tiêu mới của nửa nhiệm kỳ còn lại cao hơn so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra để phấn đấu, cụ thể: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 10-11%; GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 650 USD; tốc độ phát triển công nghiệp hàng năm tăng bình quân 15-16%; tốc độ phát triển dịch vụ- du lịch hàng năm tăng bình quân từ 14-15%; tỷ lệ huy động vào ngân sách từ 19-20% GDP; thu ngân sách năm 2005 đạt từ 2.400-2.500 tỷ đồng. Hội nghị cũng đã giao cho các cơ quan chức năng nghiên cứu để chuẩn bị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2006-2010) điều chỉnh cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng dịch vụ, du lịch - công nghiệp - nông nghiệp.
Sau 5 năm (2001-2005) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV; toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tỉnh ta đã tận dụng triệt để mọi thời cơ, thuận lợi, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiều chỉ tiêu quan trọng đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân hàng năm đạt 10,86% vượt mục tiêu đề ra, cao hơn tốc độ tăng 8,2% của giai đoạn 1996-2000. Về giá trị tuyệt đối, đến năm 2005 GDP tăng gấp 1,7 lần so với năm 2000, GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt trên 768 USD.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành dịch vụ và công nghiệp. Năm 2005, cơ cấu tổng sản phẩm theo khu vực kinh tế là: công nghiệp chiếm 40,9%; dịch vụ 41,1%; nông nghiệp 18%.
Các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm trên 13,44%, trong đó về du lịch có thêm nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật và ngành dịch vụ mới, phát triển đa dạng với nhiều loại hình hoạt động, nhiều thành phần kinh tế tham gia, thu hút được nhiều dự án, trong đó một số dự án có quy mô lớn được triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng như: khu du lịch 5 sao Hòn Ngọc Việt, khu du lịch Ninh Vân, khách sạn Sunrise….Đặc biệt, năm 2003 vịnh Nha Trang được công nhận là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới đã mở ra một hướng phát triển mạnh cho ngành du lịch, dịch vụ Khánh Hòa .
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 22,67% năm (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đề ra từ 13,5 – 14,5%), luôn nằm trong số các địa phương dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng và giá trị sản xuất công nghiệp.
Thu ngân sách luôn vượt kế hoạch hàng năm; năm 2005 đạt 3.406 tỷ đồng, gấp 2,9 lần so với năm 2000 (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra tăng 1,6 lần), chiếm 24,6% GDP.
Vốn đầu tư phát triển xã hội 5 năm đạt hơn 14.000 tỷ đồng, đạt 100% chỉ tiêu đề ra.
Kinh tế đối ngoại, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh về số lượng và chuyển biến về chất lượng. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt 458 triệu USD, trong đó xuất khẩu địa phương 416 triệu USD; nhập khẩu 205 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm 71% GDP. Khách du lịch trong và ngoài nước đến Khánh Hòa tăng bình quân 15-20%/năm. Hợp tác với một số thành phố của các nước trên thế giới bước đầu mang lại hiệu quả tích cực.
Các thành phần kinh tế phát triển, trong đó kinh tế Nhà nước phát triển ổn định và giữ vai trò chủ đạo. Đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước theo đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể có sự tăng trưởng nhanh cả về số lượng và quy mô, đến năm 2005 có hơn 1.200 doanh nghiệp tư nhân và hơn 25.000 hộ kinh doanh cá thể. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển, tính đến tháng 12 năm 2005, có 57 dự án đầu tư nước ngoài có hiệu lực với tổng vốn đăng ký 442,8 triệu USD.
Cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về giao thông, điện, thủy lợi, trường học, bệnh viện, thiết chế văn hóa... nhiều dự án lớn được triển khai xây dựng như: Đại lộ Nguyễn Tất Thành, đường Phạm Văn Đồng, đường Khánh Lê - Lâm Đồng... Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, bộ mặt thành thị, nông thôn, miền núi có sự thay đổi đáng kể.
Chính phủ thông qua quy hoạch phát triển khu kinh tế tổng hợp Vân Phong trong đó khu cảng trung chuyển container quốc tế giữ vai trò chủ đạo, kết hợp phát triển kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm là phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, nuôi trồng thuỷ sản, các ngành kinh tế khác và xây dựng các đô thị. Chuyển phía Bắc bán đảo Cam Ranh sử dụng vào mục đích kinh tế, đưa sân bay Cam Ranh vào hoạt động thương mại, cho phép đầu tư nước ngoài vào khu vực Thị xã Cam Ranh... đã mở ra nhiều cơ hội mới cho thu hút đầu tư và phát triển.
Văn hóa - xã hội có tiến bộ mới, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, đặc biệt đối với miền núi.
Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thể dục thể thao, y tế, dân số kế hoạch hóa gia đình có nhiều tiến bộ, đạt nhiều kết quả khả quan. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh, truyền hình có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng.
Đặc biệt, tỉnh đã mở hội thảo khoa học xác định năm 1653 là mốc thời gian hình thành địa phận hành chính tỉnh Khánh Hòa và quyết định tổ chức kỷ niệm Khánh Hòa 350 năm (1653-2003) vào ngày 2-4-2003; quyết nghị lấy ngày 16 tháng 7 hàng năm là Ngày truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Quan tâm đầu tư phát triển toàn diện khu vực miền núi của tỉnh, trọng tâm là các lĩnh vực giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Bình quân mỗi năm ngân sách Nhà nước đầu tư gần 60 tỷ đồng cho miền núi.
Công tác xoá đói giảm nghèo có tiến bộ, năm 2000 toàn tỉnh không còn hộ đói, đến năm 2005 số hộ nghèo còn dưới 2% (theo chuẩn cũ), hoàn thành trước 2 năm so với mục tiêu đề ra.
Giải quyết việc làm và thực hiện các chính sách xã hội được chú trọng, hàng năm tạo việc làm mới cho hơn 22.000 lao động, lao động qua đào tạo nghề đạt trên 26%. Thực hiện tốt chương trình chăm sóc người có công, các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng được mở rộng và thực hiện tốt.
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh giữ vững. Ngày 23 tháng 6 năm 2003, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương đã ký Quyết định số 355/2003/QĐ/CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hòa.
Công tác xây dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh; hoạt động của hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đoàn kết trong Đảng tốt và không ngừng được củng cố, tăng cường; đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng được kiểm tra và đánh giá đúng thực chất hơn. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 17 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) về một số giải pháp chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương và chế độ trách nhiệm của cán bộ đảng viên, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, phục vụ nhân dân bước đầu đạt được một số kết quả.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XV
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 6-12-2004 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Tỉnh ủy có kế hoạch chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng tiến hành Đại hội; đồng thời chọn một số tổ chức Đảng bộ làm Đại hội điểm, sau đó rút kinh nghiệm để chỉ đạo trong toàn Đảng bộ.
Sau thời gian tích cực chuẩn bị, từ ngày 24 đến 26-12-2005 Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XV tại thành phố Nha Trang. Dự Đại hội có 300 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 20.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Phan Diễn, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội tập trung thảo luận, đánh giá thành tựu đạt được trong 5 năm (2001-2005) và khẳng định: Kinh tế liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao, nhiều chỉ tiêu kinh tế hoàn thành vượt mức kế hoạch, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Tiềm năng thế mạnh của tỉnh bước đầu được phát huy, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế trong những năm tới.
Bên cạnh những kết quả đạt được về kinh tế - xã hội, Đại hội cũng chỉ rõ 4 yếu kém, khuyết điểm chủ yếu:
- Kinh tế phát triển nhanh nhưng còn một số khuyết điểm, yếu kém cần khắc phục.
- Có nhiều cơ chế và chủ trương đúng đắn thông qua các chương trình kinh tế - xã hội nhưng một số chương trình triển khai còn chậm, hiệu quả đạt chưa cao.
- Một số vấn đề xã hội bức xúc và phức tạp chưa được giải quyết tốt.
- Hệ thống chính trị còn bộc lộ một số yếu kém, nhược điểm.
Trong đó nhấn mạnh một số khuyết điểm cần tập trung và kịp thời khắc phục: Thu hút đầu tư nước ngoài chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh; các ngành dịch vụ có giá trị cao phát triển chậm. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực về kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế; việc giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình đô thị hóa như bồi thường, hỗ trợ tái định cư, lao động thiếu việc làm... chưa tốt, phát sinh nhiều đơn thư khiếu tố, khiếu nại của nhân dân nhưng chưa được giải quyết kịp thời.
Công tác cải cách thủ tục hành chính chưa tạo được chuyển biến căn bản; giải quyết công việc liên quan tới các hoạt động kinh tế - xã hội, các vụ việc liên quan đến lợi ích của người dân... còn chậm. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được triển khai rộng rãi và hiệu quả đạt chưa cao. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chưa chuyển biến kịp với nhiệm vụ chính trị.
Đại hội chỉ rõ những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, trong đó nhấn mạnh 5 nguyên nhân chủ yếu:
- Công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện một số mặt còn hạn chế, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ; việc bố trí ngân sách cho một số chương trình kinh tế - xã hội chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện xã hội hóa cũng như công tác vận động nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia thực hiện các chương trình còn hạn chế, chưa nhạy bén tận dụng thời cơ để tranh thủ các nguồn vốn.
- Kết cấu hạ tầng và các dịch vụ còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ; cải cách thủ tục hành chính chậm, thiếu kiên quyết, chưa tạo được môi trường đầu tư thật sự minh bạch, năng lực cạnh tranh không cao; do đó chưa thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế - xã hội; trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh còn thiếu các chuyên gia đầu ngành và lao động có tay nghề cao.
- Quản lý Nhà nước trong một số lĩnh vực: Quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính, trật tự xã hội... có mặt còn buông lỏng và sơ hở; một số dự án triển khai chậm; việc đầu tư cơ sở hạ tầng tại các khu tái định cư chưa đồng bộ, chưa giải quyết được việc làm để đáp ứng yêu cầu ổn định cuộc sống tại nơi ở mới.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất và năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức quản lý nhà nước còn yếu, không đáp ứng nhiệm vụ được giao... nhưng các cấp ủy chậm phát hiện và xử lý.
Từ thực tiễn quá trình tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Đại hội nêu lên 5 bài học kinh nghiệm:
Một là, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và một số cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh sâu sát thực tiễn, năng động, sáng tạo trong việc quán triệt và vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh, đề ra các chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động sát đúng với tình hình thực tế của địa phương, được thể chế hóa kịp thời; trên cơ sở đó tổ chức chỉ đạo thực hiện tập trung, kiên quyết.
Hai là, huy động được tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào Khánh Hòa. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường; phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành Trung ương, sự hợp tác của các địa phương trong cả nước và hợp tác quốc tế.
Ba là, phát hiện và tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời các vấn đề trọng tâm, trọng điểm mang tính đột phá trong một số lĩnh vực như xây dựng kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông; từng bước đổi mới nội dung và phương pháp chỉ đạo thực hiện theo phương châm hướng mạnh về cơ sở "tỉnh sát xã, huyện sát thôn, xã sát hộ dân"; trực tiếp giải quyết những phát sinh, vướng mắc ngay từ cơ sở.
Bốn là, phát triển kinh tế phải gắn kết với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội; coi trọng bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, nâng cao chất lượng cuộc sống và yêu cầu phát triển bền vững.
Năm là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ phải gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự phối hợp đồng bộ trong hệ thống chính trị; sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân; cán bộ, đảng viên gương mẫu là nhân tố quyết định của sự thành công.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các giải pháp chủ yếu đến năm 2010. Định hướng khái quát cho toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là: Ra sức nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong tỉnh, đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồng bộ, phấn đấu nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quyết tâm xây dựng tỉnh Khánh Hòa thành trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực Nam Trung Bộ vào năm 2010.
Phương hướng chung là huy động tối đa các nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh kết hợp với liên kết, hợp tác phát triển với các địa phương trong cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng đến các tỉnh lân cận, với các vùng kinh tế động lực của cả nước; phát triển kinh tế đối ngoại, để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng tăng trưởng. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, du lịch - công nghiệp - nông nghiệp. Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với xây dựng văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số; giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc; tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao dân trí; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái.
Các mục tiêu chủ yếu về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 12%; GDP bình quân đầu người đến năm 2010 trên 1.200 USD; nâng tỷ trọng dịch vụ lên 43,5%, giảm tỷ trọng nông nghiệp còn 13% để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, du lịch - công nghiệp - nông nghiệp. Các mục tiêu cụ thể về xã hội, văn hóa, môi trường và về công tác xây dựng Đảng, phấn đấu hàng năm có từ 75 đến 80% số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh...
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, Đại hội thông qua 7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh đến 2010.
Phát biểu với Đại hội, đồng chí Phan Diễn biểu dương sự năng động, nỗ lực phấn đấu và thành tựu quan trọng của Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa trong 5 năm qua. Về định hướng phát triển, đồng chí Phan Diễn nhấn mạnh: Khánh Hòa cần đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước; tập trung phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đi đôi với phát triển các ngành dịch vụ; tiếp tục coi trọng, quan tâm lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thường xuyên coi trọng và kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ toàn diện về mọi mặt trên cơ sở thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; cần làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phấn đấu xây dựng Khánh Hòa trở thành trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực Nam Trung Bộ.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XV gồm 49 đồng chí. Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XV bầu 12 đồng chí vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng chí Nguyễn Văn Tự, Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Võ Lâm Phi, Mai Trực làm Phó Bí thư Tỉnh ủy; bầu Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X gồm 13 đại biểu chính thức (trong đó có 01 đại biểu đương nhiên), 02 đại biểu dự khuyết.
* *
*
Từ năm 1996 đến 2005 Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa trải qua ba kỳ Đại hội (XIII, XIV, XV). Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; Ban Chấp hành Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị do Đại hội XIII, XIV đề ra, tạo tiền đề mới hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiều vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn công cuộc đổi mới chậm được tổng kết. Thực tế đó đòi hỏi Đảng bộ, các tổ chức cơ sở Đảng phải không ngừng vươn lên, nâng cao năng lực lãnh đạo ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới, xứng đáng là hạt nhân chính trị của Đảng.
____________
1. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Nguyễn Thị Hồng Vân được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đến Đại hội VII, VIII của Đảng được bầu là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
2. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (từ 19 đến 22-4-2001), đồng chí Nguyễn Văn Tự được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tags:
Tác giả:
Tổng số điểm của bài viết là: 2 trong 1 đánh giá
Xếp hạng: 2 - 1 phiếu bầu
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (1930 - 2005) (31/01/2018)
- Phụ lục 2 (30/01/2018)
- Phụ lục (30/01/2018)
- Kết luận (30/01/2018)
- Chương XVII - Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (7/1989 - 1995) (30/01/2018)
- Chương XVI - Đảng bộ tỉnh Phú Khánh lãnh đạo nhân dân trong tỉnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (11/1975 - 6/1989) (30/01/2018)
- Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu (23/10/1945 - 12/1946) (30/01/2018)
- Chương V - Xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 10/1945) (30/01/2018)
- Chương IV - Cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám (1940 - 1945) (30/01/2018)
- Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đòi tự do, cơm áo và hòa bình (1936 - 1939) (30/01/2018)