CHƯƠNG XII
ĐƯƠNG ĐẦU VỚI CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" CỦA MỸ - THẮNG LỢI TẾT MẬU THÂN (1966 - 1968)
QUÂN VIỄN CHINH MỸ VÀ QUÂN CHƯ HẦU NAM TRIỀU TIÊN TẠI KHÁNH HÒA
Vào những tháng cuối năm 1965, miền Nam đang ở cao điểm thắng lợi, đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Tại Khánh Hòa, thế và lực của địch không kém phần bi đát. Trong một báo cáo chúng viết: "Việt Cộng gia tăng mọi hoạt động. Hạ tầng cơ sở bị địch phá vỡ. Cán bộ mất tinh thần"1. Báo cáo ấy còn xác nhận: "Đành rằng Việt Cộng không chiếm được đất, mọi cuộc xuất hiện tập trung của chúng đều bị đẩy lùi khi quân đội ta hành quân đến. Nhưng khi ta rút chúng lại trở lại. Vì vậy phải thừa nhận rằng Việt Cộng đã làm ung thối và phá vỡ đa phần cơ sở nông thôn, đẩy ta vào thế thủ, tạo cho ta thêm nhiều vấn đề nan giải".
"Còn về đường giao thông thì trục quốc lộ I bị chận nghẽn ở đoạn Ninh An, Ninh Thọ, làm sự giao thông từ Ninh Hòa và Vạn Ninh bị gián đoạn"2.
Bọn ngụy quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ. Đế quốc Mỹ gấp rút leo thang chiến tranh. Địch chuẩn bị chuyển sang "chiến tranh cục bộ" nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập đó.
Đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, Khánh Hòa là một vị trí chiến lược quan trọng. Để được quan thầy Mỹ chú ý nhiều hơn và qua thất bại của "chiến tranh đặc biệt", bọn ngụy quyền lại nêu vấn đề đó như sau:
"Về mặt chiến lược, Khánh Hòa ở vào một địa thế khá quan trọng vì nằm ngay giữa ngã ba đường Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Ban Mê Thuột. Do đó, Việt Cộng đã hướng mọi hoạt động vào đây nhằm cắt đứt giao thông, chặn đường tiếp tế của ta từ Nam ra Bắc và từ Trung châu lên Cao nguyên, đồng thời để tạo ảnh hưởng chính trị"3.
Nhận định trên đây của địch cho thấy rõ bức tranh toàn cảnh về thắng lợi của ta. Mặc dù thời kỳ này trên chiến trường Khánh Hòa ta chưa có những trận đánh lớn như một số chiến trường khác trong Khu, nhưng do tính chất quan trọng về vị trí chiến lược đối với Mỹ-ngụy mà những cú đấm bất ngờ vào Nha Trang, Cam Ranh, trên quốc lộ 1, số 21 của các lực lượng cách mạng ở đây đều làm cho địch lo sợ.
Trong những năm đế quốc Mỹ tiến hành "chiến tranh đặc biệt", Khánh Hòa là nơi trú quân của các cơ quan đầu não vùng II chiến thuật, là căn cứ hậu cần cho Nam Tây nguyên, là nơi huấn luyện, đào tạo sĩ quan, nơi bồi dưỡng nghỉ ngơi cho các đơn vị bại trận. Khi đế quốc Mỹ bắt đầu leo thang gây "chiến tranh cục bộ", thì những cơ sở phục vụ chiến tranh ấy được mở rộng và tăng cường gấp bội. Hàng ngàn lính công binh Mỹ đến Cam Ranh, bắt tay xây dựng căn cứ chiến lược quan trọng này. Tiếp đó, tháng 7-1965 các đơn vị của sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên đến Nha Trang, Cam Ranh. Sau đó ra đóng quân tại Bình Định, Quảng Ngãi... Ngày 14-3-1966, sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên đổ bộ vào Nha Trang, triển khai đóng quân tại núi Ổ Gà, xây dựng căn cứ Hà Thanh (núi Ổ Gà), căn cứ trung đoàn ở Trảng Bằng (Diên Khánh). Từ tháng 7-1966, chúng càn quét và ra sức đánh phá vùng giải phóng Ninh An, Ninh Thọ (Ninh Hòa).
Trên chiến trường Khánh Hòa, nhanh chóng mọc lên hàng loạt các chốt điểm và căn cứ quân sự của Mỹ, Nam Triều Tiên.
Bộ Tư lệnh sư đoàn 9 Bạch Mã và Ban chỉ huy trung đoàn 29 đóng tại vùng núi Ổ Gà (Hà Thanh, Ninh Hòa). Căn cứ tiếp vận 100 và tiểu đoàn quân báo đóng tại Trảng Bằng (Vĩnh Xương). Ở huyện Vạn Ninh, một đại đội pháo binh Mỹ và một đại đội Nam Triều Tiên đóng tại Núi Một (Tân Dân), một đại đội Nam Triều Tiên đóng tại Tu Bông và 1 đại đội đóng ở Xuân Tự.
Ở Bắc Ninh Hòa, tiểu đoàn 2 trung đoàn 29 Nam Triều Tiên đóng tại Hòn Thượng (Ninh An), một đại đội đóng tại Hòn Dung, Tân Lâm, một đại đội đóng tại Bình Sơn.
Ở Nam Ninh Hòa, tiểu đoàn 3 Nam Triều Tiên có một đại đội đóng tại Giồng Đền, một đại đội đóng tại Núi Một, một đơn vị pháo binh Mỹ có nhiều đại pháo 175 ly đóng tại Hòn Xang, một đại đội quân báo đóng tại Rọ Tượng (ranh giới giữa Ninh Hòa - Vĩnh Xương).
Ở Diên Khánh, một đại đội Nam Triều Tiên đóng tại Hòn Ngang, Hòn Miễu, Phú Cốc (Diên Lâm), một đại đội thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 30 và một đại đội pháo 105 ly đóng tại đường nhíp, Suối Dầu (quận Cam Lâm).
Ở Cam Ranh có duyên đoàn 26 hải quân, Trung tâm huấn luyện lực lượng đặc biệt Đồng Bà Thìn, tiểu đoàn 2 trung đoàn 30 và tiểu đoàn 5 pháo binh Nam Triều Tiên.
Đặc biệt trong 3 năm 1965-1967, Mỹ-ngụy đưa dân là tín đồ đạo Thiên Chúa bị bắt buộc di cư vào xây dựng nhiều làng, xã xung quanh căn cứ Cam Ranh, hình thành cái gọi là "Vành đai chính trị" nhằm bảo vệ vững chắc căn cứ chiến lược quan trọng này. Vào cuối năm 1965, Cam Ranh trở thành thị xã, trực thuộc trung ương ngụy quyền Sài Gòn4.
Về lực lượng quân ngụy thì trong cả tỉnh có 11 đại đội địa phương quân, 98 trung đội nghĩa quân, bố trí khắp các xã thôn nhiều nhất là ở các huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, nơi mà chính quyền địch ở nông thôn hầu như rệu rã, tê liệt.
Ngoài ra, còn các lực lượng do bộ chỉ huy Mỹ trực tiếp nắm lấy như:
- Lực lượng huấn luyện khu Dục Mỹ.
- Trại dân sự chiến đấu trung dũng tại Diên Khánh.
- Trường Hạ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đồng Đế.
- Liên đoàn 5 biệt kích Trung Dũng, có 2, 3 tiểu đoàn người Nùng đóng tại Bình Tân do thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, Tổng trấn Nha Trang trực tiếp nắm và điều động.
- Liên đoàn 6 biệt kích Trung Dũng cũng có 2, 3 tiểu đoàn người Nùng đóng ở Đồng Bà Thìn. Cả 2 liên đoàn này vừa là căn cứ của biệt kích, vừa là trung tâm huấn luyện.
- Duyên đoàn 25 Hải thuyền tại Hòn khói.
- Duyên đoàn 26 tại Cam Ranh.
- Tiểu đoàn 5 An ninh thiết lộ.
- Chi nhánh TTHQ/KT Nha Trang.
- Các đơn vị quân sự trực thuộc ban chỉ huy yếu khu Nha Trang đồn trú tại thị xã, hai trung đội cảnh sát dã chiến, trung đội City do Mỹ trực tiếp chỉ huy.
Về quân số đến cuối năm 1965 có 10.500 quân Mỹ và chư hầu Nam Triều Tiên, 10.070 quân ngụy. Đến tháng 9-1966, con số ấy lên đến trên 43.000 tên gồm 26.000 quân Mỹ, Nam Triều Tiên, 17.657 quân ngụy.
Với lực lượng quân sự đó, bộ máy kìm kẹp dân của địch được xây dựng và bố trí rất chặt chẽ. Mỗi huyện có một đại đội địa phương quân, mỗi xã có một trung đội nghĩa quân. Quân Mỹ và Nam Triều Tiên đóng căn cứ lớn nhỏ, từng trung đội, đại đội, tiểu đoàn, hình thành một hệ thống chốt điểm bảo vệ các trục quốc lộ 1, 21, có nơi đóng chốt sâu vào rừng núi như Đá Bàn (Ninh Hòa), bao vây các căn cứ ta, ngăn cách đồng bằng với miền núi, sử dụng mạng lưới hỏa lực dày đặc gồm pháo các cỡ, xe bọc thép M113 và trực thăng vũ trang. Bên trong là lực lượng các loại của ngụy, gồm các đơn vị địa phương quân, nghĩa quân, dân vệ, đội bình định nông thôn.
Được quân Mỹ và Nam Triều Tiên bảo vệ ở vòng ngoài, bọn này nằm sát các thôn xã, giả thực hiện "ba cùng" với dân nhằm phát hiện cơ sở ta. Chúng chia từng khu vực để dọn vệ sinh nhà cửa, vườn tược cho dân, bề ngoài là giúp dân, nhưng thực chất là để phát hiện hầm bí mật, bắt cán bộ và cơ sở ta, rào làng bằng dây thép gai, đẩy lực lượng ta ra khỏi nhân dân.
Hệ thống chốt điểm quân Mỹ và Nam Triều Tiên trở thành chỗ dựa chủ yếu cho các lực lượng ngụy quân và bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền. Có chỗ dựa là quân Mỹ và Nam Triều Tiên, bọn này rảnh tay, ra sức lùng sục cán bộ, chiến sĩ đội công tác, khủng bố nhân dân, đánh phá phong trào cách mạng.
Trên chiến trường Khánh Hòa địch bố trí hai lực lượng chính: Một là, quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên làm nhiệm vụ bảo vệ hậu cứ giao thông, là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa của bọn kìm kẹp bình định. Hai là, bọn tề ngụy, biệt kích, các đoàn xây dựng nông thôn, là lực lượng trực tiếp "bình định" kìm kẹp quần chúng. Cả hai lực lượng ấy có chung một nhiệm vụ là đánh phá phong trào, bảo vệ hậu cứ và trục giao thông cho Mỹ. Vì vậy, Trung ương Đảng đã chỉ rõ là trong chiến tranh cục bộ ta phải coi trọng việc đánh bại cả hai lực lượng chiến lược, bao gồm quân viễn chinh Mỹ, quân các nước chư hầu của Mỹ và quân ngụy.
Chiến thuật "chốt điểm" của quân Nam Triều Tiên, trong cái thế vùng đồng bằng của tỉnh nhỏ hẹp, núi sát biển là sự bất lợi lớn cho ta trong công tác xây dựng cơ sở, bám trụ đồng bằng. Nó gây tổn hại cho cán bộ và lực lượng của ta từ căn cứ miền núi về làng, hạn chế rất nhiều khả năng tiếp xúc giữa ta và quần chúng cách mạng bên trong thôn xã. Lính Nam Triều Tiên rất tàn ác và nham hiểm. Chúng gài mìn Clay-mo5 trên hầu hết các con đường nghi cán bộ ta đi về làng, rồi mai phục rất công phu 5 đêm, 10 đêm, nằm yên một chỗ, hoặc bọc người trong túi ny lông ngâm mình trong nước chỉ để ló đầu. Có những lần đi lùng phục, một lính cõng thêm một lính khác. Khi chúng rút, trinh sát của ta tính đủ số đi và về, không ngờ rằng một lực lượng y như thế đã được để lại phục kích, do đó lúc đầu ta bị tổn thất hy sinh khá nhiều. Chúng thường dùng pháo chụp bắn đến các điểm nghi ta về làng.
Cách phục kích kết hợp với mìn Clay-mo của quân Nam Triều Tiên trong một thời gian dài đã gây cho ta biết bao khó khăn, tổn thất về chiến sĩ, cán bộ và đội vũ trang công tác thường đi về làng ban đêm, xuất phát từ các căn cứ nhỏ ven rừng.
Chiến thuật "chốt điểm" của địch trở thành trở ngại chủ yếu trước mắt cho ta trong việc tiến công địch, giữ vững, khôi phục và phát triển phong trào ở đồng bằng, đô thị.
Đối với căn cứ miền núi của ta lâu nay đã được giải phóng thì địch dùng các lực lượng biệt kích, do thám, gián điệp liên tiếp đánh phá các vùng giáp ranh. Mặt khác sử dụng từng trung đoàn, sư đoàn mở những cuộc càn quét quy mô dài ngày sâu vào căn cứ nhằm mục đích "tìm diệt" quân chủ lực ta, kết hợp với các hoạt động do thám, gián tiếp xúc dân, rút dân, bao vây kinh tế, rải hóa chất độc, phá hoại hoa màu, cây cối hòng phá nát chỗ dựa của cách mạng trong tỉnh, tạo thế an toàn cho các trục đường giao thông và hậu cứ của chúng.
Ở Khánh Hòa chỉ trong năm 1967, Mỹ-ngụy đã mở 2 cuộc càn quét cấp sư đoàn, 5 cuộc càn quét cấp trung đoàn, 106 cuộc hành quân cấp đại đội yểm trợ xây dựng nông thôn, tuần phục nhỏ 25.754 lần, thực hiện 383 phi vụ "diệt cộng", 29 vụ rải chất độc hóa học khai quang 4.062 mẫu hoa màu tại các căn cứ, 17.437 lần tuần duyên, chặn xét 15.877 ghe thuyền6.
Những cuộc càn quét lớn nhỏ của các lực lượng hỗn hợp "Việt-Mỹ-Hàn" đã gây cho ta không ít khó khăn, tổn thất, là những thử thách lớn đối với Đảng bộ và phong trào cách mạng trong tỉnh.
Do sự xâm nhập của quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên, bộ mặt văn hóa, xã hội của Khánh Hòa đã biến dạng. Ở thị xã Nha Trang và các thị trấn, các "ba" mọc lên như nấm. Vùng cây số 9 Cam Ranh num-bơ-nai (Number nine) nổi tiếng là nơi ăn chơi trác táng của Mỹ. Lính Mỹ đi nghênh ngang trên đường phố, giết người, hãm hiếp phụ nữ, gây tang tóc đau thương. Thường xuyên có những xác phụ nữ bị vứt trong các đống rác ở Lương Sơn, phơi trần trên bãi biển. Những hoạt động chụp giật kiểu Mỹ của bọn buôn bán chợ đen, bọn cao bồi đĩ điếm diễn ra nhan nhản.
Những người nông dân bị tan cửa nát nhà vì bom đạn Mỹ, từ các vùng nông thôn trong tỉnh và ngoài tỉnh tràn về thị xã Nha Trang, Cam Ranh ngày càng đông. Kẻ đi tìm việc làm, người thất nghiệp nằm la liệt trên các vỉa hè đường phố.
Tờ báo "Sống" số 1111 ngày 31-7-1968 đăng tin: "Một số lính Mỹ ở Cam Ranh công khai diễn trò cướp bóc. Quốc kỳ Việt Nam (của ngụy) bị chà đạp, tiền Việt Nam (ngụy) bị tịch thu. Người Việt Nam trên đất Việt bị đánh đập v.v..."7.
Bọn chỉ huy Mỹ đã ra lệnh "cho Nha Tổng thanh tra quân lực Việt Nam cộng hòa mở cuộc điều tra", tất nhiên là để che mắt quần chúng.
Nhưng dù đế quốc Mỹ có dùng trăm phương nghìn kế để che dấu bộ mặt xâm lược "bộ mặt cướp nước của chúng vẫn bị bóc trần, chiêu bài độc lập phá sản", (Nghị quyết Thường vụ Tỉnh ủy tháng 7-1966).
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ, giữa Mỹ và ngụy trở nên hết sức sâu sắc.
ĐẢNG BỘ NÊU CAO QUYẾT TÂM ĐÁNH MỸ VÀ THẮNG MỸ
Đế quốc Mỹ leo thang gây ra cuộc "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Quân của chúng vào trong lúc ta đang thắng lớn, Mỹ-ngụy đang thua to. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đang trên đà sụp đổ. Ở Khánh Hòa , ta có căn cứ miền núi giải phóng từ năm 1960 vẫn được giữ vững và củng cố. Ở đồng bằng, ngụy quân, ngụy quyền đang trên đà suy yếu. Ở đô thị, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ tiếp tục phát triển.
Trước tình hình mới đòi hỏi phải có sự chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức. Hội nghị Tỉnh ủy tháng 8-1965 còn chỉ đạo theo hướng đánh bại cuộc "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Đến tháng 9-1965, Tỉnh ủy nhận điện của cấp trên thông báo về ý đồ chiến lược mới của Mỹ và chủ trương đối phó của ta.
Tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết lần thứ 12, nêu ra một cách tổng quát đường lối và phương pháp cách mạng nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, chính xác lực lượng so sánh giữa ta và địch, Nghị quyết đó đã đi đến một kết luận dứt khoát là quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng quân đội viễn chinh Mỹ và bù nhìn trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.
Nghị quyết vạch rõ, mặc dù đế quốc Mỹ đã leo thang gây ra chiến tranh cục bộ, nhưng tính chất thực dân mới của cuộc chiến tranh vẫn không thay đổi. Ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Nếu trong thời kỳ chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt", thế chiến lược tiến công ấy dựa trên ưu thế tuyệt đối về chính trị và tinh thần, trên sức mạnh áp đảo của quần chúng cách mạng, thì trong thời kỳ chống chiến lược "chiến tranh cục bộ", thế chiến lược ấy dựa trên sự triển khai lực lượng quân sự và chính trị trên các địa bàn chiến lược toàn miền.
Đảng bộ Khánh Hòa tiếp thu tinh thần Nghị quyết lần thứ 12 của Trung ương Đảng, tại hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng vào tháng 7-1966. Hội nghị được tiến hành tại Xuân Sơn, một căn cứ của huyện Vạn Ninh8. Tham dự hội nghị có các đồng chí Mai Dương, Nguyễn Hồng Châu (tức Năm Phổ), Tô Văn Ơn, Lưu Văn Trọng, Lê Tụng, Phạm Thành Huyên (tức Ba Huệ), Võ Cứ, Nguyễn Lương... Sau hội nghị này, đồng chí Năm Phổ, ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy, thay đồng chí Mai Dương làm Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Mai Dương được Khu ủy phân công làm nhiệm vụ khác.
Khi quân viễn chinh Mỹ và chư hầu đến đóng quân, tư tưởng nội bộ và quần chúng có nhiều biến chuyển bất lợi, như sợ Mỹ, ngại phi pháo, sợ không giữ nổi vùng giải phóng, không mở phong trào được, không đấu tranh hai chân, ba mũi, nhất là không binh vận được, vì ngôn ngữ bất đồng.
Tại Khánh Hòa, cán bộ và nhân dân đã cầm súng chiến đấu từ những ngày đầu khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, đến nay đã trên 20 năm. Chiến tranh lại ngày càng gia tăng cường độ, bên cạnh quân ngụy còn có thêm hàng vạn quân Mỹ và chư hầu với đủ các loại vũ khí hiện đại. Trong hoàn cảnh đó trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân khó tránh khỏi có những tư tưởng lệch lạc. Nhưng, Tỉnh ủy và các cấp bộ đảng vẫn kiên định lập trường, tư tưởng, xem việc phải đánh cả quân Mỹ và chư hầu là điều tất nhiên. Chỉ thị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng đặc trách miền Nam, và của Khu ủy là xây dựng tư tưởng quyết tâm đánh Mỹ, tiếp tục vận dụng phương châm hai chân ba mũi giáp công phù hợp tình hình mới.
Dưới ánh sáng Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng, hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy đã đi sâu kiểm điểm tình hình về sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, biểu dương những điển hình tốt, những gương chiến đấu anh dũng, đồng thời nghiêm khắc phê phán tư tưởng "hữu khuynh", đánh giá địch cao, đánh giá thấp thắng lợi, không giữ vững thế cách mạng tiến công, thiếu tin vào sức mạnh của quần chúng. Bản Nghị quyết viết: "Tỉnh ta giữ một vị trí chiến lược quan trọng đối với địch (căn cứ chỉ huy, huấn luyện, hậu cần cho nhiều nơi) cho nên sắp đến đế quốc Mỹ và chư hầu sẽ tăng thêm và chiếm đóng một số điểm xung yếu trên các đường giao thông chiến lược (quốc lộ 1 đường 21, đường Ninh Hòa - Hòn Khói) mở rộng căn cứ quân sự, mở thêm hải cảng, sân bay, tăng cường càn quét phi pháo ác liệt hơn, lấn chiếm các vùng giải phóng, đánh miền núi, ra sức bình định nông thôn, xây dựng lại các ấp chiến lược, dựng lại thế kìm kẹp quần chúng.
Chúng ta cần đánh giá hết âm mưu của địch để chuẩn bị tư tưởng cho nội bộ và quần chúng một quyết tâm cao, sẵn sàng chịu đựng và vượt qua mọi ác liệt hy sinh, kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ và tay sai để giữ vững phong trào đồng bằng, bảo vệ căn cứ9.
Để làm nhiệm vụ này phải thực hiện ba bám là: cán bộ bám dân, du kích bám địch, nhân dân bám ruộng vườn. Bản nghị quyết coi đó là "khâu quyết định để đánh bại âm mưu càn quét, bình định, xúc dân của Mỹ ngụy và chư hầu"10.
Lúc Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp cũng là thời điểm đế quốc Mỹ đang tăng cường đánh phá miền Bắc, phá hoại hậu phương lớn hòng làm lung lay ý chí của Đảng và Chính phủ ta. Chúng còn tuyên bố láo xược đưa miền Bắc "trở lại thời kỳ đồ đá". Đứng trước tình hình đó, nhân dịp kỷ niệm ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ 20-7-1966, Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi vang dội núi sông. Người nói:
"Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằng, chúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để xâm lược miền Nam Việt Nam, chúng có thể sử dụng hàng ngàn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng thì tội của chúng càng thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì qúy hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
"Không có gì qúy hơn độc lập tự do" - Chân lý đanh thép đó đã nung nấu thêm tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cán bộ chiến sĩ và nhân dân Khánh Hòa. Cả hội nghị đã bắt đài nghe, cho ghi chép rồi in phát cho cán bộ và chiến sĩ học tập. Nghị quyết lần thứ 12 của Trung ương Đảng và Lời kêu gọi ngày 20-7-1966 của Hồ Chủ tịch, là những văn kiện chính để nghiên cứu trong các cuộc hội nghị nhằm giáo dục, phát động tư tưởng cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
CHỐNG ĐỊCH LẤN CHIẾM VÙNG GIẢI PHÓNG
Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ nhất (1965-1966) khi đế quốc Mỹ mở cuộc hành quân "Van-bua-rem" đánh phá phong trào cách mạng Phú Yên, thì ở Khánh Hòa, chúng ra sức xây dựng căn cứ, tiến hành càn quét tạo điều kiện cho quân ngụy nống ra. Chúng đánh phá vùng giải phóng và vùng giáp ranh, càn trục đường số 1 từ đèo Rù Rì đến đèo Rọ Tượng với lực lượng 4, 5 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, càn khu vực Dốc Mõ, Hòn Chảo, Xuân Sơn (Vạn Ninh), dốc Ông Thượng, Đá Bàn (Bắc Ninh Hòa), Ninh Diêm (Đông Ninh Hòa), càn Đồng Bò căn cứ của Nha Trang.
Lực lượng bảo an liên tục lùng sục ven rừng, trong làng. Từng đại đội biệt kích luân phiên lùng sục lên núi ở các vùng Am Chúa, Hòn Ngang, Sông Tắc, Giồng Sặc (bờ Bắc Diên Khánh), chân Hòn Ngang, Hòn Chuông (bờ Nam Diên Khánh). Nhằm phục vụ âm mưu "bình định nông thôn", xây dựng "ấp đời mới", địch phát triển các hoạt động chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng. Đối với các huyện miền núi (Khánh Sơn, Vĩnh Sơn, Vĩnh Khánh) ngoài các cuộc càn quét lớn, địch thường xuyên dùng phi pháo đánh phá, kết hợp với hoạt động biệt kích gián điệp, chiến tranh tâm lý nhằm thực hiện âm mưu xúc tát dân, phát triển cơ sở gián điệp.
Tình hình trở nên hết sức khó khăn, trên chiến trường chưa có hoạt động của chủ lực. Bộ đội địa phương, du kích cùng nhân dân kiên trì bám đánh địch. Ở Diên Khánh, tuy địch đã lấn chiếm và lập ngụy quyền ở bốn thôn Đại Điền, nhưng cán bộ ta bám chặt, chuyển thành thế tranh chấp. Một "đơn vị vành đai"11 dùng súng có ống ngắm bắn tỉa diệt quân Nam Triều Tiên, du kích phục kích đánh xe Nam Triều Tiên ở Đá Lố. Đồng bào đấu tranh buộc địch phải để cho ra rừng làm rẫy. Nam Ninh Hòa tuy không có vùng giải phóng, nhưng qua các đợt nổi dậy ở Tam Ích, Phú Hữu, Hòn Cóc đã có 25 thanh niên được rút ra căn cứ bổ sung cho lực lượng vũ trang. Ngay tại thị trấn Ninh Hòa, ta đã xây dựng được chi bộ đảng sống hợp pháp và 65 cơ sở. Đồng chí bí thư huyện ủy vào ở bí mật tại thị trấn để chỉ đạo phong trào. Ở Bắc Ninh Hòa vẫn nổi lên tấm gương đấu tranh bất khuất của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai xã Ninh An, Ninh Thọ, nơi có sư đoàn quân Nam Triều Tiên đóng căn cứ tại núi Ổ Gà (Hà Thanh) đấu tranh giành giật với địch từng người dân, nhiều lần bị địch líp lại, nhưng cũng nhiều lần được giải phóng. Trong đợt chống càn ngày 17-5-1966, 8 du kích xã Ninh Thọ chiến đấu suốt 3 ngày với 4 trung đội địch, diệt và làm bị thương 24 tên. Một tiểu đội địa phương cùng với du kích đánh quân Mỹ 4 ngày diệt 70 tên.
Du kích thôn Lạc Hòa và bộ đội địa phương đã đánh lui trận càn có ba tiểu đoàn ngụy và một tiểu đoàn Mỹ tham gia. Địch dùng đủ bài bản, pháo bắn dọn đường, rồi dẫn đội hình đánh vào, nhưng chúng bị du kích và bộ đội địa phương bám công sự đánh lui hết đợt này đến đợt khác đến 3 giờ chiều, vẫn không vào được giữa thôn. Một nữ du kích bám công sự bắn ngã 7 tên Mỹ, đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Giặc Mỹ điên cuồng dội bom xuống Ninh An, Ninh Thọ. Có ngày riêng thôn Lạc Hòa phải chịu đựng bốn lượt máy bay phản lực Mỹ ném bom. Từ xa nghe tiếng bom đạn, tưởng chừng đồng bào chịu không nổi phải đi, nhưng ngay sau trận bom, mặc dù có người chết và bị thương, đồng bào vẫn giữ vững vị trí chiến đấu "quyết một tấc không đi, một ly không rời".
Đồng bào đánh địch ngoan cường, đấu tranh chính trị cũng rất linh hoạt, quyết liệt. Quân Nam Triều Tiên kéo đến Lạc An, bị du kích chặn đánh diệt một số tên. Để trả thù chúng bắn chết 14 dân thường, đồng bào đấu tranh buộc không được bắn giết nhân dân, chúng phải bồi thường nhân mạng. Sự kiện này làm sáng tỏ khả năng thực tế và nêu một tấm gương sáng về đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên.
Mặc cho bọn Nam Triều Tiên xây dựng căn cứ sư đoàn ở ngay phía Nam vùng giải phóng, cán bộ và du kích vẫn bám đất, bám dân.
Ninh An, Ninh Thọ là trọng điểm "bình định" của quân Mỹ và Nam Triều Tiên. Chúng càn đi, quét lại nhiều lần, nhưng vẫn không lấn chiếm được hai xã này. Tháng 10-1966, quân Nam Triều Tiên dùng cả một trung đoàn bao vây xã Ninh Thọ bằng hai hàng rào người, cứ năm bảy mét là một tên và mỗi chặng là một cụm súng máy. Đồng thời một số đơn vị khác sục vào làng bắt hết dân chở về Phú Thọ (xã Ninh Diêm), dùng bọn ác ôn người địa phương gạn tìm du kích. Trên mảnh đất không người chúng vẫn tiến hành lùng sục hủy diệt cho đến khi tin được rằng không còn "Việt Cộng". Chỉ khi ấy chúng mới cho dân trở về với cả bộ máy ác ôn, tề điệp, dân vệ để kìm kẹp dân.
Nhờ bám hầm bí mật và có dự trữ lương thực, nên cán bộ và du kích ta không bị tiêu hao. Khi địch xúc hết dân, các đồng chí rút về căn cứ học tập, củng cố đội ngũ, khi dân trở về thì tiếp tục bám dân hoạt động.
Đảng ủy Phân khu Nam ghi nhận thành tích của du kích hai xã Ninh An, Ninh Thọ đã "nêu tấm gương oanh liệt đánh phủ đầu quân địch, không kém du kích vùng nào trong Khu V, diệt hàng trăm tên, thu vũ khí, một lần nữa chứng minh sức sống mạnh mẽ của phong trào du kích chiến tranh và đấu tranh của quần chúng nhân dân Khánh Hòa"12.
Theo chủ trương của Quân khu, Phân khu Nam rút bớt một trong hai trung đoàn chủ lực đang hoạt động tại Phú Yên tăng cường cho Khánh Hòa. Đây là trung đoàn Trần Hưng Đạo, sau đổi thành trung đoàn Sao Thủy (E.20 ), chiến sĩ hầu hết là thanh niên hậu phương lớn miền Bắc được đưa vào chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Có lực lượng mới, Phân khu Nam và Tỉnh ủy chủ trương mở đợt hoạt động giải phóng Tu Bông. Tuy ở đây cơ sở quần chúng, cơ sở chính trị còn yếu, nhưng Tu Bông có thuận lợi và tiếp giáp với Phú Yên, nơi có phong trào, lại là nơi ở xa Tiểu khu Khánh Hòa. Nếu giải phóng được Tu Bông sẽ có điều kiện lập căn cứ liên hoàn với Phú Yên và có thể giữ được, từ đó mở phong trào ra cả huyện Vạn Ninh, lấy nhân tài vật lực ở đó để tạo điều kiện giải phóng các nơi khác. Ban Kinh tài tỉnh đã tập trung trên 60 tấn gạo phục vụ cho chiến dịch. Nhưng kế hoạch của ta bị lộ13. Địch dùng trực thăng đổ bộ hai tiểu đoàn chận ngay cửa rừng, nơi ta tập kết xuất quân ở hướng Tây Tu Bông. Ta đánh được một số trận, diệt một bộ phận sinh lực địch thuộc tiểu đoàn 23 biệt động quân đóng ở Sở Thuốc lá Lạc Ninh. Sau đó trung đoàn Sao Thủy để lại một tiểu đoàn hoạt động ở Bắc Khánh, còn toàn bộ chuyển vào Nam Khánh, theo ý đồ sử dụng lâu dài E.20 ở Khánh Hòa.
Kế hoạch đánh Tu Bông vào tháng 9-1966 không thành. Trong nội bộ phát sinh vấn đề phức tạp, xuất hiện tư tưởng thiếu tin ở khả năng của chủ lực. Phương châm, phương thức mở đồng bằng chưa được giải quyết nhất trí. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng vào tháng 12-1966 tại Hòn Dữ do đồng chí Nguyễn Hồng Châu (Năm Phổ), Bí thư Tỉnh ủy chủ trì lại đặt mạnh vấn đề mở đồng bằng. Hội nghị biểu dương du kích hai xã Ninh An, Ninh Thọ và bộ đội địa phương Bắc Ninh Hòa đã chống càn anh dũng. Thực hiện chủ trương của Khu ủy, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban chỉ huy tiền phương do Bí thư Tỉnh ủy làm chính ủy để thống nhất chỉ đạo mọi hoạt động quân sự, chính trị trong tỉnh.
Quyết tâm của Hội nghị Tỉnh ủy lần này xây dựng thực lực mạnh ở vùng nông thôn đồng bằng, đồng thời đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở ở thị xã, thị trấn, vùng sát thị xã, thị trấn và trục giao thông chiến lược lâu nay cơ sở quá yếu hoặc chưa có cơ sở. Nghị quyết của Tỉnh ủy xác định: "Nhiệm vụ mở đồng bằng, giành giữ dân, tiêu hao tiêu diệt địch là vấn đề vô cùng quan trọng, có tính chất sinh tử tồn vong đối với Đảng bộ chúng ta. Vì vậy tất cả cán bộ, chiến sĩ, đảng viên phải đem hết tinh thần, nghị lực quyết sống chết với kẻ thù, thực hiện cho được nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó".
Để thực hiện nhiệm vụ trên, sự chủ động và sáng tạo của các cấp ủy huyện giữ một vai trò rất quan trọng. Hội nghị Tỉnh ủy chủ trương tăng cường cho huyện, đồng thời chú trọng kiện toàn các đội công tác về người và trang bị. Tiểu đoàn tập trung của tỉnh được phân ra đưa về làm nhiệm vụ bộ đội địa phương huyện. Trung đoàn Sao Thủy đứng trên đất Khánh Hòa làm nhiệm vụ chủ lực của tỉnh, tạo những đòn tiêu diệt sinh lực địch để hỗ trợ cho phong trào.
Sau hội nghị Tỉnh ủy, các đơn vị, địa phương khẩn trương triển khai công tác, chuẩn bị chiến trường, thu mua lương thực, sẵn sàng chiến đấu với tư thế mở đồng bằng.
CHIẾN DỊCH MÙA XUÂN NĂM 1967
Ta mở chiến dịch trong tình hình địch đang tiến hành kế hoạch phản công mùa khô thứ 2 nhằm đánh phá căn cứ miền núi, "tìm diệt" chủ lực ta và "bình định" vùng nông thôn đồng bằng.
Mỗi lần càn vào căn cứ miền núi, địch sử dụng tổng hợp các loại vũ khí tối tân hiện đại như B57, B52, pháo các loại, hóa chất độc. Chúng làm sân bay dã chiến trên các đỉnh núi nằm trong vùng căn cứ của ta như: Hòn Ngang, Hòn Nhọn, Hòn Dữ... đổ quân từ trên đỉnh núi càn xuống. Các cuộc càn quét đánh phá quy mô như vậy diễn ra suốt những năm "chiến tranh cục bộ" và ác liệt nhất là năm 1967, năm đế quốc Mỹ mở cuộc "phản công chiến lược" mùa khô thứ hai (1966-1967), mà Khánh Hòa là một trong trọng điểm đánh phá của chúng.
Cuộc càn quét bắt đầu mùa khô thứ 2 là cuộc càn lớn nhất của địch từ trước tới nay trong tỉnh. Trong cuộc càn này, địch sử dụng sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên, một trung đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên ở Phú Yên vào phối hợp với hai tiểu đoàn của sư 23 ngụy. Hỏa lực được sử dụng gồm hai tiểu đoàn pháo 106, và 135 ly, bốn pháo nòng dài 175 ly, một chi đoàn xe bọc thép M113, 30 trực thăng, 3 phi đội máy bay phản lực F4, F105, 1 phi đội khu trục AD6, B57 và pháo tàu thủy đậu ngoài biển.
Ngày 20-1-1967, từng tốp máy bay B52, B57 ném bom rải thảm, pháo của địch bắn cấp tập vào căn cứ để chuẩn bị cho các lực lượng bộ binh tiến công căn cứ Hòn Dù, Hòn Lớn (Vĩnh Khánh) là nơi đóng các cơ quan đầu não của tỉnh gồm: Tỉnh ủy, Tỉnh đội, Ban chỉ huy trung đoàn Sao Thủy, Uỷ ban Mặt trận Giải phóng tỉnh.
Qua một số diễn biến và hoạt động của địch, Ban chỉ huy tiền phương nhận định, trước hết địch sẽ càn vào căn cứ, trọng điểm là khu Hòn Dữ, Đá Teo, nên đã thông báo cho các cơ quan, đơn vị sẵn sàng phản công, đánh địch ở căn cứ, đồng thời tích cực tiến công và phản công địch ở vùng sâu, chủ yếu ở hai khu vực Bắc Diên Khánh và Nam Ninh Hòa.
Ngày 29-1, địch đổ quân càn vào vùng Hòn Dữ, Đá Teo. Các cơ quan, đơn vị tham mưu, trinh sát, hậu cần, thông tin, an ninh, hành lang, đại đội 548, một bộ phận đại đội 88, hình thành những tổ quầng bám đánh địch. Kết quả diệt 80 tên Nam Triều Tiên.
Đêm 8-2, một bộ phận đại đội 88 (C.88 là đại đội trinh sát đặc công) đánh trận địa pháo ở chợ Tân Đức (Diên Khánh) diệt 54 tên, phá hủy một đại liên, một trung liên và một số súng khác, thu hai máy truyền tin PRC10. Do trận địa pháo này bị diệt cho nên cuộc càn của trung đoàn quân Nam Triều Tiên phải rút khỏi khu vực Hòn Dữ, Đá Teo, chúng để lại một lực lượng chốt ở 2 khu vực Hòn Dung, Hòn Bồ.
Từ ngày 9-2 đến ngày 15-2, địch càn xuống các vùng núi Tây-bắc Diên Khánh. Một bộ phận của đại đội 88 tập kích địch ở khu vực Hòn Bồ, diệt một tiểu đội địch. Trong đêm 15-2, đơn vị đặc công 90 đánh sân bay Nha Trang diệt 70 tên Mỹ, phá hủy 21 máy bay trực thăng, 3 máy bay vận tải Ca-ri-bu, 3 lô cốt, một nhà lính, 4 xe Jeep. Một bộ phận đại đội 89 (C.89 là đại đội công binh) đánh hỏng một đầu máy và 3 toa xe lửa ở Cam Ranh.
Ở Ninh Hòa, ngày 19-2, ta tập kích Phú Hữu (Ninh Ích, Ninh Hòa), tiêu hao một đoàn bình định nông thôn, thu 3 súng. Ngày 21-2, các đơn vị của tiểu đoàn 8 diệt 170 tên, bắn rơi một trực thăng, đại đội 1 diệt 30 tên, bắn rơi một trực thăng. Ngày 23-2, đại đội 5 diệt 179 tên, bắn rơi một trực thăng. Đại đội 6 diệt 30 tên.
Bộ đội địa phương Nam Ninh Hòa và một bộ phận đại đội 88 diệt một tiểu đội địch càn ra cơ quan huyện đội. Công binh diệt một xe địch ở đèo Rọ Tượng, làm chết và bị thương 28 tên Nam Triều Tiên. Đại đội 548 đánh 3 xe địch đi mở đường, 2 xe bị cháy, diệt 13 tên Nam Triều Tiên.
Một bộ phận đại đội 89 phục kích đánh địch trên trục đường Rù Rì - Rọ Tượng, một bộ phận đại đội 88 tập kích địch ở Xuân Phong, phản kích địch ở Diên Thủy. Đại đội 2 đơn vị độc lập của Tỉnh đội phản phục kích địch ở Đại Điền Nam tất cả 11 trận, diệt 30 tên địch.
Ở Nam Diên Khánh tiểu đoàn 7-E20 và bộ đội địa phương huyện tấn công Hội Phước, Mỹ Lộc diệt 82 tên địch.
Ngày 6-3, một bộ phận đại đội 88 tập kích quận lỵ Ninh Hòa, ngày 10-4 phục kích Gò Quýt, Phong Ấp, 7 giờ sáng ngày 10-4 đặc công nước Nha Trang đánh chìm một tàu chiến trọng tải 12.000 tấn tại Cửa Bé (Nha Trang).
Ở Vạn Ninh, đội công tác xã Vạn Phú, thị trấn Vạn Giã bẻ gãy cuộc càn do 1 đại đội Nam Triều Tiên phối hợp với đại đội bảo an do tên quận trưởng chỉ huy, diệt 1 tiểu đội địch; thừa thắng, ngay trong đêm đội công tác đột nhập thị trấn Vạn Giã vũ trang tuyên truyền, diệt ác.
Các trận chống càn và phản công địch trong 4 tháng đầu năm 1967 có điểm nổi bật là Nam Ninh Hòa diệt tại trận trên 400 tên địch, bắn rơi 3 máy bay, 1 bị thương. Riêng bộ đội địa phương Ninh Hòa diệt 72 tên địch, bắn rơi một máy bay, 1 chiếc khác bị thương.
Trong chiến đấu xuất hiện rất nhiều dũng sĩ diệt địch, như đồng chí Phương, một cán bộ quân báo dùng lựu đạn và AK diệt 22 tên Nam Triều Tiên, một tổ 4 đồng chí bộ đội chủ lực đánh địch suốt hai ngày diệt một trung đội, đánh lui nhiều đợt xung phong của cả tiểu đoàn địch. Bà mẹ Nguyễn Thị Ơi ở thôn Phú Hữu dẫn một tiểu đội chủ lực đi chiến đấu, đang lúc giữa chiến trường, bom đạn địch trút như mưa, mẹ đã nói với anh em: "Các con vì nhiệm vụ giết giặc cứu nước, mẹ cũng vì nhiệm vụ đưa các con đi, dù có chết cũng là vì dân, vì nước". Tỉnh ủy đã tặng mẹ danh hiệu "Bà mẹ chiến sĩ Khánh Hòa" và huy hiệu "Phụ nữ giải phóng miền Nam".
Trên khắp chiến trường Khánh Hòa, ta đánh địch ở căn cứ, giáp ranh, đồng thời đánh địch tận vùng sâu, du kích phối hợp với chủ lực diệt quân Nam Triều Tiên ở Mỹ Lương (Ninh Diêm), diệt bọn bình định ở Phú Hữu (Ninh Ích), pháo kích sân bay Nha Trang, đánh mìn phá đầu máy và các toa xe lửa ở Cam Ranh, tấn công trận địa pháo ở Tân Đức, lập vành đai diệt Mỹ, bắn tỉa quân Nam Triều Tiên tại Đá Lố. Đội công tác xã Diên Lạc bắt ác ôn giữa ban ngày sát Thành Diên Khánh. Đặc biệt là trong chống càn ở căn cứ, cán bộ, nhân viên cơ quan, chị em phục vụ cũng tham gia chiến đấu diệt được địch.
Thành tích chiến thắng trong chiến dịch mùa Xuân nói lên sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa các loại quân, giữa căn cứ và vùng giáp ranh, giữa đồng bằng và thành phố.
Phối hợp với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và binh vận cũng đạt kết quả khá. Đồng bào Ninh Hòa đã bền bỉ và khôn khéo đấu tranh giữ được toàn bộ mùa lúa, không cho địch chở xuống vùng sâu. Đồng bào giữ lúa lại để ăn, bán và ủng hộ cách mạng. Đồng bào đấu tranh đòi được đi làm rẫy, chặt chuối bán trong dịp Tết, được đi dẫy mả, viếng phần mộ ông bà trong vùng đóng quân của địch. Trước sự đấu tranh quyết liệt và khôn khéo của đồng bào, bọn Nam Triều Tiên ở Đá Lố đã phải để cho đồng bào vào thăm rẫy gần điểm đóng quân của chúng.
Huyện Diên Khánh đã phát 7.000 tờ truyền đơn, thâm nhập sát binh sĩ và gia đình họ, phổ biến chính sách Mặt trận Dân tộc giải phóng. Cơ sở ta tranh thủ đi thăm hỏi binh sĩ ngụy trong dịp Tết, cầu chúc mạnh khỏe bình an, ít gặp rủi ro để được đoàn tụ với cha mẹ, vợ con.
Mũi đấu tranh chính trị, binh địch vận có điều kiện phát triển tiến công vào tư tưởng nhớ nhà, nhớ quê hương của quân viễn chinh Mỹ, Nam Triều Tiên, thúc đẩy làm rã rời tinh thần binh sĩ ngụy. Mặt trận Dân tộc giải phóng phát hàng vạn truyền đơn bằng chữ Việt, chữ Anh, chữ Triều Tiên, khêu gợi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, tình cảm quê hương. Ta nắm được một số sĩ quan chỉ huy của ngụy (cấp đại úy) và nhận được những sơ đồ quan trọng về căn cứ quân sự địch ở Cam Ranh, Dục Mỹ, các tài liệu chiến thuật tại Học viện quân sự Đà Lạt của ngụy, phục vụ cho tác chiến. Chủ tịch phong trào cách mạng quốc gia, đảng viên "đảng Cần lao Nhân vị" Ninh Hòa trở thành nội tuyến của ta và có hầm bí mật trong nhà. Ta nắm gọn tổng đoàn dân vệ ở Diên Khánh và tổng đoàn dân vệ ở Ninh Hòa. Ở Lập Định (Cam Ranh) ta xây dựng được cơ sở là một trung đội trưởng nghĩa quân. Đó là những cơ sở phục vụ cho các cuộc tiến công quân sự của ta vào những căn cứ nằm sâu trong lòng địch.
Do đặc điểm chiến trường ngay tại hậu phương địch, và cũng do tính chất cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ, ở Khánh Hòa phần lớn các gia đình đều có người thân liên hệ với ngụy quân, hoặc ngụy quyền. Bởi vậy, trong rất nhiều nghị quyết, Tỉnh ủy coi công tác binh địch vận và vận động gia đình binh lính ngụy là công tác vận động quần chúng của Đảng.
Trong mấy tháng chống càn và phản công địch, từ ngày 20-1 đến 12-4-1967, quân và dân trong tỉnh đã loại ngoài vòng chiến trên 1.500 tên địch, trong đó có 170 Mỹ, 794 Nam Triều Tiên, diệt gần hết một đại đội và một trung đội Nam Triều Tiên.
Đảng ủy Phân khu Nam nhận định:
" Ở Khánh Hòa lần đầu tiên áp dụng tốt bài học 6 phương thức tác chiến, bài học về tư tưởng tích cực tiến công. Thắng lợi quân sự mới là bước đầu, nhưng ảnh hưởng chính trị đối với địch, với nhân dân và nhất là đối với nội bộ ta rất quan trọng. Nếu không có Đông-xuân với kết quả như trên thì căn bản khó nói đến việc đứng vững của chủ lực, của ba thứ quân, tạo ra khả năng mở rộng đồng bằng, phối hợp hai chân ba mũi giáp công để giành thắng lợi lớn nay mai" (Báo cáo tại Hội nghị Đảng ủy Phân khu Nam, 30-5-1967).
Tỉnh ủy cũng đánh giá cao thắng lợi vừa qua của quân và dân trong tỉnh. Trong báo cáo "Tổng kết tình hình địch ta trong 2 tháng đầu năm 1967" của Thường vụ Tỉnh ủy có đoạn viết:
"Nếu đem so sánh với thành tích chiến trường chung, thì đây là con số rất nhỏ, nhưng đối với Khánh Hòa nó có ý nghĩa quan trọng, diệt 553 quân Nam Triều Tiên (con số chưa được báo cáo đủ) là lực lượng nòng cốt dã man nhất của địch và diệt sạch một trung đội bình định Phú Hữu là bọn ác lưu vong. Bước đầu hạ uy thế quân gian ác, làm cho bọn kìm kẹp địa phương tề ngụy càng thêm dao động, khí thế cách mạng lên, ảnh hưởng chiến thắng lan rộng khắp nơi trong quần chúng.
"Thắng lợi vừa qua có ý nghĩa lịch sử đối với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Từ kháng chiến chống Pháp đến nay, chưa có lúc nào, địa phương nào diệt một lúc hàng trăm quân viễn chinh, hạ 3 chiếc máy bay tại chỗ như trận Nam Ninh Hòa.
"Mặt khác, qua đợt chống càn tấn công và phản công địch, cũng cho ta đánh giá và hiểu địch tương đối toàn diện, khách quan, có cơ sở thực tế để khắc phục tư tưởng bi quan, sợ địch, đánh giá địch cao, xem nhẹ khả năng cách mạng của quần chúng, cũng như tư tưởng chủ quan khinh địch, tê liệt cảnh giác đưa đến những tổn thất, thiệt hại".
Khánh Hòa là một chiến trường ngay tại hậu phương địch, nên việc đánh tiêu diệt, tiêu hao kìm chân quân địch tại địa phương, làm cho hậu phương của chúng thường xuyên bị khuấy động, không an toàn, là một cố gắng đáng kể của ta trong hoạt động phối hợp với các chiến trường Khu V, mà trực tiếp là đối với chiến trường Phú Yên. Trong chiến dịch này địch đã phải điều trung đoàn Mãnh Hổ (Nam Triều Tiên) từ Tuy Hòa I vào chi viện Khánh Hòa.
CHUẨN BỊ THỰC HIỆN PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Sau những thất bại nặng nề trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô ở miền Nam và ba năm đánh phá miền Bắc, đế quốc Mỹ đứng trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Riêng tại chiến trường Khu V, từ Đông-xuân 1966-1967, địch đã tập trung vào đây 104 tiểu đoàn Mỹ-ngụy và chư hầu với trên 400.000 quân, chiếm hơn 39% tổng số quân toàn miền Nam. Nhưng toàn bộ âm mưu chiến lược "tìm diệt" và "bình định" của địch đều bị thất bại. Hội nghị Thường vụ Khu ủy mở rộng từ ngày 20 đến 27-9-1967 nhận định:
"Trên chiến trường Khu V hiện nay rõ ràng địch đang ở trong cái thế phòng ngừ chiến lược, vì sức tấn công của địch yếu ớt rõ rệt. Mùa khô I ở Khu V địch mở 3 mũi tấn công, tập trung 50 tiểu đoàn, nhưng mùa khô II địch không có mũi tấn công nào đáng kể...
"Tình hình địch hiện nay giống như hồi đầu năm 1965, lúc chưa có Mỹ nhảy vào. Địch đang ở trong một giai đoạn khủng hoảng toàn diện và rất nghiêm trọng về các mặt chính trị, quân sự, về tinh thần, về cả chiến lược chiến thuật và chiến dịch".
Về phía ta, Hội nghị vạch rõ:
"Ta đang giữ vững và phát triển thế chủ động tấn công địch dồn dập trên khắp các chiến trường và liên tiếp giành thắng lợi ngày càng to lớn. Phong trào trong các vùng yếu và đô thị đang phát triển sôi nổi, quần chúng đang nô nức đón chờ cách mạng. Tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện. Nhiệm vụ lịch sử của Đảng và của dân tộc đã đề ra cho Đảng bộ chúng ta là phải quyết tâm và nhanh chóng chuyển phong trào lên thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng". Phương hướng đó đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng nêu ra là: "Trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phát huy chiến thắng to lớn trong mùa khô vừa qua, ra sức đẩy mạnh những cố gắng chủ quan của ta đến mức cao nhất, nhằm giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn".
Thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng trong hoàn cảnh Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa đứng trước nhiều khó khăn. Toàn bộ vùng đồng bằng giải phóng trong những năm 1964-1965 bị địch lấn chiếm. Lực lượng ta ngày càng lớn, nhưng lương thực và các điều kiện vật chất khác quá eo hẹp, vùng căn cứ nghèo, đời sống nhân dân thấp, địch phá hoại liên tục, lại xa sự chi viện của trên. Nhưng ta cũng có nhiều thuận lợi cơ bản là đường lối, phương châm và nhiệm vụ của cấp trên đề ra rất sáng rõ. Quyết tâm của Trung ương rất lớn sẽ động viên mạnh mẽ nội bộ và quần chúng tiến lên.
Tỉnh có lực lượng võ trang mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đảng bộ, quân và dân Khánh Hòa đã trải qua trên một năm trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên, đối phó có hiệu quả chiến lược hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" của địch. Chúng ta đã biết rõ kẻ địch hơn, đã chịu đựng thử thách và đứng vững, đã rút được kinh nghiệm đánh Mỹ, Nam Triều Tiên và kinh nghiệm về các mặt khác.
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang ta tận tụy nhiệt tình, quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng quê hương. Cơ sở và thực lực bên trong một số nơi đồng bằng tương đối khá, căn cứ miền núi vững vàng.
Nhìn tổng quát các khó khăn và thuận lợi nói trên, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng từ ngày 20-7 đến 3-8-1967 đưa ra một nhận xét quan trọng là:
"Chúng ta đang trên thế tấn công và chiến thắng trên toàn bộ chiến trường".
Tiếp đó, cuộc họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng ngày 4-10-1967 ra nghị quyết xác định rõ quyết tâm của Đảng bộ và các công tác cụ thể. Nghị quyết ghi rõ:
"Toàn Đảng bộ cần nhận rõ thời kỳ hiện nay là thời kỳ thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng (Đảng đã hạ quyết tâm chiến lược) để ra sức động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh, dốc toàn bộ lực lượng tinh thần và vật chất, vượt mọi gian khổ, khó khăn, sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, nỗ lực vươn lên mạnh mẽ, phát động bạo lực cách mạng của quần chúng, nhanh chóng khắc phục các nhược điểm của phong trào, nhằm vào những chỗ yếu của địch mà tấn công liên tục, giải phóng nông thôn đồng bằng, hoàn thành công tác chuẩn bị trong một thời gian ngắn, sẵn sàng thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng".
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, Hội nghị Tỉnh ủy (8-1967) bầu bổ sung 5 đồng chí (gồm 2 chính thức và 3 dự khuyết) vào Tỉnh ủy.
NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 1967
Trên chiến trường Khánh Hòa, vào những tháng cuối năm 1967, hoạt động của địch không có gì mới. Ngoài rìa từ huyện Diên Khánh trở ra phía Bắc Khánh chủ yếu chúng dùng lực lượng biệt kích và địa phương quân tăng cường đóng chốt, lùng phục càn quét bìa làng, cạnh núi, tạo thành tuyến dài chặn các lực lượng ta xuống đồng bằng, thị xã và tiếp cận căn cứ của chúng.
Ở vòng trong, các lực lượng vũ trang ngụy cùng các đội "bình định" ra sức sục sạo, xăm lục trong nhà, ngoài vườn để phát hiện hầm bí mật, phát hiện cơ sở và cán bộ ta. Mặt khác, chúng hù dọa, bắt bớ, khống chế kìm kẹp quần chúng, ra sức đôn quân, bắt lính.
Địch mở ba cuộc càn tương đối lớn, lực lượng từ hai tiểu đoàn đến trung đoàn gồm quân Nam Triều Tiên, biệt kích Mỹ và quân ngụy hỗn hợp vào vùng giáp ranh các huyện đồng bằng; chúng huy động các binh chủng phối hợp tác chiến gồm: Thủy, Lục, Không quân, có máy bay chiến lược B52 thả bom rải thảm, hạm đội pháo kích, xe bọc thép càn trục đường 21, Tây Hòn Hèo, Đông và Nam Ninh Hòa, núi Thống Nhất, Đồng Bò.
Do hoạt động mạnh và có hiệu quả của ta, bọn địch tỏ ra lúng túng bị động ứng phó. Ngày 20-10, tàu SKRTROI chở đạn pháo cập bến Nha Trang. Ngày 28-10, lữ đoàn dù 101 Mỹ đến Cam Ranh. Ngày 16-11, hai tiểu đoàn Bạch Mã, trung đoàn 28 đóng ở Phú Yên chuyển vào Bắc Khánh. Ngày 1-11, 3.000 lính Nam Triều Tiên đổ bộ lên Nha Trang, bổ sung cho sư Bạch Mã và thay số yếu về nước 1.000 tên. Ngày 2-11, một trung đoàn Nam Triều Tiên nữa đổ bộ lên Nha Trang. Ngày 3-11, hai trung đội Mỹ da đen từ Cam Ranh ra phản ứng ở các xã thuộc huyện Vĩnh Xương.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng từ ngày 20-7 đến ngày 03-8-1967, Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng từ ngày 4-10-1967, quân và dân tỉnh đã mở chiến dịch mùa Thu năm 1967, chọn Nam Ninh Hòa làm trọng điểm 1, trọng điểm 2 là Bắc Ninh Hòa, diện là Diên Khánh. Tại trọng điểm 1, sử dụng tiểu đoàn 8 trung đoàn Sao Thủy. Tại trọng điểm 2 có tiểu đoàn 9. Tại huyện Diên Khánh có tiểu đoàn 7. Mỗi nơi đều có bộ đội địa phương huyện, công binh, pháo binh yểm trợ. Tại trọng điểm 1, thành lập Ban chỉ huy thống nhất do đồng chí Đặng Nhiên, Bí thư huyện ủy làm chính trị viên, đồng chí Trần Chiến Lược, trung đoàn phó làm chỉ huy trưởng, đồng chí Quế tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8, đồng chí huyện đội trưởng Nam Ninh Hòa làm chỉ huy phó... Tối 23-10-1967 ta tiến công và phản công địch ở các thôn Phong Ấp, Trường Châu, Thạch Thành (Ninh Bình) và trên đường xe lửa. Ngay trong ngày đầu ta diệt trên 200 tên địch, hầu hết là quân Nam Triều Tiên. Bọn này rất hung hăng liều lĩnh. Ta dùng đại liên, trung liên, thượng liên, B40, lựu đạn quật ngã hết lớp này thì lớp khác hò hét xông lên. Pháo của địch ở cứ điểm Hà Thanh, Giồng Đền cấp tập nã vào trận địa. Trong nhiều ngày đêm ta bám trụ và chiến đấu tại các thôn Thuận Mỹ, Thạnh Mỹ, Quang Vinh. Kết quả sau bốn ngày đêm liên tục quần đánh, ta đã diệt trên 450 tên địch, hầu hết là quân Nam Triều Tiên, bắn rơi một máy bay, bắn cháy một xe M113 và một chiếc khác bị thương, tên thiếu tá đại đội trưởng quân Nam Triều Tiên chết tại trận. Bên ta 20 đồng chí hy sinh và 27 đồng chí bị thương. Đồng chí Quế tiểu đoàn trưởng hy sinh ngay trong ngày đầu vì bị pháo của địch.
Sau trận này, bọn Nam Triều Tiên càn lên Hòn Bà (nơi gộp Ông Huyền) với lực lượng trên một trung đoàn, có máy bay yểm trợ. Quân ta trong tư thế chủ động ở trên đầu dốc, tận dụng gộp đá, gốc cây làm công sự, chờ bọn Nam Triều Tiên lên đông thì xả súng liên thanh, lựu đạn tiêu diệt, ít thì bắn tỉa từng tên. Quân địch ngoan cố hết lớp này bị ngã, thì lớp khác lại xông lên. Trận đánh kéo dài đến trưa, trên 200 tên địch bị diệt, nhưng chúng vẫn không lên được Hòn Bà, cuối cùng phải rút. Ngay trong trận đánh và liên tiếp sau đó, địch sử dụng đủ các loại pháo: pháo bầy, pháo chụp, pháo từ biển bắn vào, cả máy bay B57, B52 thi nhau trút đạn bom đào thành những hố sâu. Ngoài ra, chúng còn rải hóa chất độc phát quang làm trụi cả lá cành, phá hoại hoa màu, giết hại gia súc và người. Các đỉnh núi Hòn Lớn, Hòn Bà, Hòn Ngang, Đá Teo bị bom đạn cày xới xơ xác.
Ở các huyện khác cuộc chiến đấu cũng đã diễn ra không kém phần ác liệt.
Trận quầng trụ tại thôn Phước Đa 3 (Ninh Đa - Bắc Ninh Hòa) từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều ngày 24-10-1967. Lực lượng địch gồm hai tiểu đoàn Nam Triều Tiên cùng quân ngụy, có xe bọc thép M113, máy bay trực thăng và phản lực yểm trợ, tấn công nhiều đợt vào vị trí ta. Ta phản công quyết liệt, không cho địch lọt được vào vị trí trụ bám, diệt trên trăm tên Nam Triều Tiên, bắn rơi hai trực thăng, bắn cháy một xe M113. Một đồng chí bị thương nặng còn nằm lại, dùng súng diệt hai tên địch, rồi đập nát súng trước khi hy sinh.
Trận Nghiệp Thành (Diên Khánh), ta đánh địch từ sáng đến chiều 1-11-1967. Địch cho hai tiểu đoàn Nam Triều Tiên và hai tiểu đoàn biệt kích biệt hiệu "Trâu Điên" tấn công vào vị trí bám trụ của ta. Các lực lượng vũ trang ta diệt hàng trăm tên địch, nhưng phía ta cũng tổn thất nặng.
Trận quầng trụ tại Phú Lộc (Diên Thủy) sát Thành Diên Khánh từ ngày 2 đến 3-11-1967, ta loại ngoài vòng chiến hàng trăm tên địch. Bộ đội huyện Diên Khánh trong hai ngày chống 20 cuộc càn, gài mìn, diệt bộ chỉ huy địch, bắn rơi một máy bay trực thăng, thu 1 đại liên. Tự vệ mật đánh được nhiều trận táo bạo, nổi bật là tự vệ Nha Trang. Bộ đội địa phương người dân tộc Khánh Sơn đã diệt một tiểu đội nghĩa quân ở khu vực Bầu Hùng và bắn bị thương máy bay địch. Tại Cam Ranh, ta tập kích đồn Cửu Lợi diệt 1 trung đội nghĩa quân thu 12 súng M16. Công binh đánh lật nhào một đoàn xe lửa gần ga Suối Môn; đơn vị 561 pháo kích đồn Bàu Cỏ; bộ đội đặc công nước C93 đánh chìm 1 tàu trọng tải 8.000 tấn tại cảng Cam Ranh.
Bị đánh đau, địch hoang mang điên loạn. Chúng tàn sát, đốt phá, hãm hiếp bừa bãi. Mỗi khi nghe tiếng động, tiếng nổ, hay nghi là nơi có lực lượng kháng chiến, thì các loại vũ khí của địch thi nhau bắn cấp tập tới, hoặc những nơi ta rút đã lâu, nhưng chúng vẫn chưa dám vào như ở Phong Ấp, Thạch Thành (Ninh Hòa).
Chúng hoảng hốt đến nỗi dùng máy bay bắn xả vào nơi đóng quân của ngụy, có khi bắn cả vào đội hình hoạt động của quân đội chúng.
Bọn lính Nam Triều Tiên tàn sát, đốt phá hãm hiếp cả đến những người làm việc cho chúng. Ở Ninh Thân (Ninh Hòa) chúng bắn chết người cha có con làm ở chi công an, rể là đại úy. Chúng hiếp vợ của hai lính ngụy. Hai tên này ngăn cản, chúng bắn chết tại chỗ. Chúng hiếp chết hai em bé 16 tuổi, bắn chết cả số lính ngụy về phép mặc dù hai tên này đã đưa giấy phép cho chúng.
Binh sĩ ngụy căm tức, hai lính ngụy đã bắn chết ba lính Nam Triều Tiên tại chỗ đông người.
Đám ngụy quân, ngụy quyền một phần vì sợ quân Nam Triều Tiên bắn ẩu, một phần vị sợ ta đánh bất thình lình, chúng tỏ ra dao động và chạy dài về vùng sâu ẩn náu.
Trong các ngày ta quầng trụ hoạt động, trung đội nghĩa quân ở Ninh Ích tan rã không còn phiên hiệu. Trung đội nghĩa quân vùng Đông Ninh Hòa cũng tan. 47 lính ngụy ở Tu Bông đào ngũ. Binh lính ở trại huấn luyện Dục Mỹ đào ngũ liên tục, có tên tìm đến ta yêu cầu giết bọn ác ôn để cho chúng chạy.
Đồng bào ta trong quận lỵ cũng như các xã phụ cận ba ngày tận mắt thấy bọn Nam Triều Tiên chết nhiều, xác máy bay bị hạ, xe tăng bị cháy nên vô cùng phấn khởi, không ít người dự trữ sẵn gạo cho ta ăn đánh giặc.
Trong những tháng cuối năm 1967, các lực lượng vũ trang ta đã đánh 190 trận, giết và làm bị thương trên 2.700 tên địch. Trong số quân Mỹ chết có một cố vấn chỉ huy sân bay Nha Trang, còn hầu hết là sĩ quan cấp úy và nhân viên kỹ thuật. Trong số quân Nam Triều Tiên chết có hai trung tá, bốn thiếu tá, hai trung úy. Nhiều tên biệt kích, ác ôn và cảnh sát bị trừng trị, có hai trung đội dân vệ bị diệt gọn.
Ta đã bắn rơi và phá hỏng 56 máy bay, 13 đầu máy xe lửa và 31 toa xe, đánh sập 5 lô cốt, 4 trụ sở, một trạm viễn thông, bắn cháy một kho xăng, phá một pháo 105 ly, làm sập 6 cầu, bắn cháy 11 xe GMC, 2 xe bọc thép M113, một cần trục, đánh chìm hai tàu và một xà lan, phá hai cây số đường sắt Nha Trang - Cam Ranh.
Những thắng lợi đạt được chứng minh chủ trương đúng đắn của Tỉnh ủy, quyết tâm của Ban chỉ huy mặt trận tiền phương và của các đảng bộ, chi bộ trong toàn tỉnh, nhất là ở chiến trường trọng điểm Nam Ninh Hòa. Ở đây cơ sở chính trị khá vững. Đảng viên của chi bộ thị trấn, chi bộ các xã Ninh Hưng, Ninh Quang, Ninh Ích đều sống và hoạt động hợp pháp. 6 chi bộ của đội vũ trang công tác đều bám chặt vào các xã thôn nhờ có hầm bí mật được xây dựng vững chắc. Cơ sở chính trị vững tạo ra nhiều thuận lợi cho các hoạt động vũ trang. Khuyết điểm của ta là sau trận quầng trụ đánh ở Ninh Hòa, địch bị tổn thất nặng nề, chúng đã rút được bài học; ta lại cứ dùng chiến thuật công sự phòng ngự cứng nhắc, thiếu cơ động, nên trong trận Nghiệp Thành ta bị tổn thất nặng.
Thông báo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (8-11-1967) về "Mấy ngày ta trụ đứng hoạt động tại Ninh Hòa" có rút ra nhận xét như sau:
"Một là: địch rất bạc nhược, suy yếu và cũng rất dã man. Những nơi chúng tách được dân ra khỏi lực lượng ta (tách bằng thủ đoạn chiến tranh tâm lý và khủng bố), nhất là những vùng giáp ranh, thưa dân, hẻo lánh, thì chúng thẳng tay tàn sát đốt phá.
Bài học này cho thấy rõ: nếu trụ, quầng chiến đấu ở những nơi giáp ranh, thưa dân, hẻo lánh, địch có thể cào xúc dân và tán sát hủy diệt.
"Hai là: thấy rõ được mặt tích cực, nhiệt tình ủng hộ cách mạng, tinh thần yêu nước, khả năng đấu tranh chính trị binh vận của quần chúng và cũng thấy được mặt tiêu cực, sợ ác liệt, hy sinh, bỏ chạy của họ".
Bài học này cho thấy rõ, những vùng đông dân xung yếu, phụ cận, đô thị, dù địch dùng thủ đoạn tách dân ra khỏi lực lượng ta, quần chúng dù sợ ác liệt cũng chỉ chạy xà quầng, không thể chạy xa, một đôi ngày rồi trở về nhà. Ta có điều kiện bám dân, phát động lãnh đạo quần chúng đấu tranh ba mũi giáp công. Những thủ đoạn tàn sát dân của địch ở đây thường gặp sức đấu tranh mạnh mẽ của đông đảo quần chúng. Đây là điều kiện quan trọng, là khả năng hạn chế sự tàn ác dã man của địch đối với quần chúng và cũng là khả năng cho ta trụ bám, hoạt động tiêu hao tiêu diệt địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta".
Bởi vậy, điểm nổi bật trong các hoạt động của ta là đánh đều, mạnh, liên tục vào vùng sâu, đông dân, phụ cận thị xã, thị trấn, đánh đúng đối tượng, diệt được nhiều Mỹ, Nam Triều Tiên, bọn kìm kẹp địa phương và bọn biệt kích, trung dũng, ác ôn; quầng bám trụ, đánh địch ban ngày tại vùng sâu trên diện rộng, gây được niềm tin lớn vào việc chuẩn bị thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng. Tuy nhiên, ở một số địa bàn, trận đánh cụ thể ta đã phạm sai lầm, chậm chuyển đổi hình thức tác chiến đánh địch, đã gây thương vong, tổn thất to lớn.
VÙNG CĂN CỨ MIỀN NÚI
Điều đặc biệt ở miền núi Khánh Hòa lúc này là không còn đồn bót địch. Áp lực của địch chỉ biểu hiện bằng các cuộc càn quét, phi pháo, rải hóa chất độc phá hoại hoa màu.
Một nhiệm vụ lớn của vùng căn cứ là ra sức phát triển sản xuất. Trong hoàn cảnh ở xa Trung ương và cũng ở xa Trung ương Cục miền Nam, xa cả nơi đóng cơ quan của Khu cho nên Khánh Hòa phải luôn đặt cho mình nhiệm vụ tự giải quyết lấy vấn đề lương thực, trang trải cho nhu cầu kháng chiến trong tỉnh, bằng cách đẩy mạnh sản xuất ở vùng căn cứ và thu mua lương thực ở vùng bị địch chiếm. Nhưng thu mua lương thực ở vùng tạm bị địch chiếm là cả một cuộc đấu tranh xương máu, phải tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch, không cho chúng chuyển lúa vào vùng sâu, quyết tâm giữ lúa để ăn, làm nghĩa vụ kháng chiến và bán cho cách mạng. Trong vụ mùa năm 1967 ta đã mua được 284 tấn gạo. Tuy vậy, nguồn vật lực dồi dào ở đồng bằng vẫn bị địch khống chế, ta chưa huy động được bao nhiêu.
Vùng căn cứ miền núi dân ít lại nghèo, trình độ sản xuất thấp, nhưng phải đảm nhiệm phần lớn các chi phí cho toàn bộ cuộc kháng chiến của tỉnh. Nguồn lương thực ở đây tương đối ổn định, sản xuất và thu mua theo mức đã định trước. Đến tháng 5-1966, huyện Khánh Sơn đã gieo trồng 4.066 giạ lúa, bắp giống và gần 2 triệu gốc mì. Huyện Vĩnh Khánh đã gieo trồng 1.540 giạ lúa bắp giống, nửa triệu gốc mì, huyện Vĩnh Sơn 2.907 giạ và một triệu gốc mì.
Về sản xuất ở cơ quan, huyện Khánh Sơn đã gieo trồng 123 giạ lúa bắp giống, 37.000 gốc mì, huyện Vĩnh Sơn 70 giạ, huyện Vĩnh Khánh 80 giạ và 87.000 gốc mì.
Trong năm 1967, tuy thời tiết không thuận lợi và do địch đánh phá, tổng sản lượng lương thực toàn căn cứ thấp hơn năm 1966, nhưng kết quả đóng góp lương thực vẫn đạt 14.200 giạ, tăng 3.200 giạ so với năm 1966.
Sản xuất tự túc cơ quan là một thành tích nổi bật, nhiều đơn vị, cơ quan, chẳng những tự túc được 100% về lương thực mà còn đóng góp hàng tấn lương thực cho cách mạng.
"Có thể nói, nếu chúng ta không thu được thành tích lớn về sản xuất tự túc nội bộ như vậy thì Đảng bộ ta không thể đứng vững về mặt lương thực trong mấy năm qua"14.
Ở miền núi, ngoài sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng bắt đầu phát triển, đây là một hiện tượng mới nảy sinh trong kháng chiến. Ở các huyện, nhân dân đi nhặt tà vẹt, đường ray xe lửa, thu lượm các mảnh bom, vỏ đạn của địch để rèn dao, rựa phục vụ sản xuất, làm xoong chảo, nồi niêu và các đồ dùng cần thiết khác. Ở Khánh Sơn nhân dân đã sản xuất được đường mía bán cho cơ quan và bộ đội. Trong một số văn kiện của Tỉnh ủy, huyện ủy đều có nhận định, khuyết điểm của lãnh đạo là chưa chú ý phát triển nghề thủ công ở miền núi, còn ỷ lại nhiều vào việc mua sắm ở đồng bằng, chưa chú ý giải quyết khó khăn về công cụ sản xuất cho quần chúng như mua sắm búa, đe, giũa, cưa sắt, chưa chú ý đào tạo một số thợ thủ công cho các vùng chưa có nghề.
Về mặt văn hóa, giáo dục đã xây dựng được một số đoàn văn công không chuyên, nhiều trường bổ túc văn hóa và một số trường lớp cấp 1 cho nhân dân và con em đến học. Về y tế đã xây dựng được các ban y tế xã, huyện và y tế phục vụ chống càn.
Về dân quân du kích, các huyện miền núi đã xây dựng được hàng nghìn người. Ở một số thôn, số lượng du kích đã vượt quá 12% dân số. Du kích miền núi đã bắn hạ máy bay địch, xuống đồng bằng phối hợp với các lực lượng vũ trang đánh địch. Chị Là Út, bà Huỳnh (Hòn Dù, Vĩnh Khánh) là những nữ du kích dũng cảm, bắn rơi máy bay địch, bảo vệ sản xuất, bảo vệ căn cứ.
Về công tác xây dựng Đảng, trong cả 3 huyện miền núi có 37 chi bộ với 486 đảng viên, 30 chi đoàn thanh niên với 391 đoàn viên. Thành phần các cấp ủy huyện, xã phần lớn là các đồng chí người dân tộc. Đảng viên trung thành, hăng hái, nhưng trình độ lãnh đạo còn yếu. Báo cáo công tác đầu năm 1967 của Tỉnh ủy nhận định:
"Hầu hết cán bộ địa phương đã trưởng thành, qua thử thách trong nhiều năm đen tối của cách mạng. Lòng trung thành tận tụy của đảng viên rất bảo đảm".
Đồng bào miền núi đã có công nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ, bộ đội, bảo vệ cái vốn qúy nhất của cách mạng là các cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, huyện trong nhiều năm đấu tranh cực kỳ gay go ác liệt. Gạo, bắp và mì của đồng bào miền núi đã nuôi dưỡng từng tiểu đoàn, trung đoàn quân đội ta.
Trong những năm trước, địch sử dụng phi pháo kết hợp với hoạt động biệt kích, thăm dò và đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, phát triển gián điệp. Nhưng trong "chiến tranh cục bộ", địch liên tiếp mở các cuộc càn quét lớn, kết hợp với phi pháo đủ loại, pháo bầy, pháo nòng dài, máy bay B52, chà đi xát lại rất quyết liệt.
Các cuộc càn của địch trong tháng 1, tháng 2 năm 1967 chỉ gây ảnh hưởng, chứ chưa trực tiếp vào căn cứ chính của ta. Tháng 4-1967, chúng mở cuộc càn lớn, trọng tâm đánh vào căn cứ Vĩnh Khánh. Ngày 11-4-1967, địch đổ quân xuống Thác Trại, Cầu Bà, Giăng Ché, Sông Cầu. Ngày 13-4 đổ quân xuống Pa Cẳng. Đây là cuộc càn trên diện rộng từ Trảng Thông đến Gia Lê, trực thăng đổ quân sâu, từ phía sau đánh tới, hành quân nhanh để tập kích bất ngờ phá sản xuất, tìm bắt dân. Nhược điểm cố hữu của địch là tinh thần kém, nay mở cuộc càn vào vùng rừng núi chúng rất sợ hầm chông, cạm bẫy, nên tác dụng của càn quét đánh phá bị hạn chế.
Về phía ta, du kích làm được nhiệm vụ theo dõi địch, canh gác, trinh sát, tổ chức cho dân lánh tránh, nhưng ngại xáp chiến đấu. Sau cuộc càn "Thiềm Đầu Thủy" từ năm 1963 đến nay đã trên 3 năm, nhân dân miền núi chưa phải đối phó cuộc càn quét lớn nào của địch nên còn bỡ ngỡ trước những thủ đoạn mới của chúng, nhất là phi pháo của địch.
Như vậy, cuộc càn vừa rồi là một thử thách lớn, làm bộc lộ một số mặt yếu trong xây dựng và củng cố căn cứ miền núi của ta. Các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và một số cán bộ xung quanh tỉnh đã chia nhau xuống các huyện, đến những nơi có khó khăn để kịp thời ổn định tư tưởng, củng cố tổ chức. Nhân dân lại yên tâm, lo phát triển sản xuất, bám rẫy giữ làng.
Lương thực là nhu cầu thiết yếu, nhưng nguồn tài lực quan trọng, dồi dào lại còn nằm trong các vùng địch chiếm đóng. Do đó việc sử dụng lương thực phải rất dè xẻn, tiết kiệm. Ta xác định sắn mì là chiến lược, bắp là quan trọng, lúa là cần thiết. Trong suốt bao nhiêu năm chiến đấu, cán bộ, bộ đội chủ yếu là ăn sắn mì, có chút ít lúa gạo thì dành để nuôi thương binh. "Ăn mì đánh Mỹ", khẩu hiệu ấy đã trở thành cuộc sống bình thường.
Trong cái khó khăn chung, tư tưởng, tình cảm của đồng bào miền núi đối với cán bộ và bộ đội thật vô cùng cao cả. Họ nhịn từng bát cơm, hạt bắp để nuôi cán bộ, bộ đội. Những công việc tải đạn, tải thương, lương thực, mở đường đều do dân công miền núi, có đợt đi từ hai đến ba tháng, tự mang lương thực theo ăn, con đi với cha, một người mang thức ăn, có khi không có gì ăn, phải đi đào củ mài và ăn rau rừng qua ngày. Nhiều chị em có con nhỏ vẫn hăng hái xung phong đi dân công. Huyện Vĩnh Khánh chỉ có 2.956 dân, nhưng trong những tháng cuối năm 1967 đầu năm 1968 đã có 17 đợt dân công gồm 1.505 người phục vụ vận chuyển lương thực, vũ khí cho tiền tuyến; số còn lại ở phía sau tham gia giã gạo, vận chuyển lương thực gồm 5.610 công. Có đoàn 80 người dân công hỏa tuyến, vận chuyển vũ khí 30 ngày liên tục, không có gạo, bắp, phải đào củ mài, ăn rau trừ bữa, lại bị lạc đường, nhưng vẫn đi đến nơi.
Điều cảm động là trong không khí chuẩn bị thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng, ở miền núi, phong trào đóng góp tài lực chống Mỹ rất cao. Có huyện đóng góp gấp 2 lần, có xã đóng góp gấp 4 lần năm trước. Đa số gia đình đóng góp từ 20% trở lên. Có số gia đình đóng góp tới 50%, 80% hoa lợi thu hoạch. Có gia đình chỉ dành một ít làm giống cho vụ sau, còn bao nhiêu đóng hết, đóng góp xong là phải ăn rau, củ rừng. Có người tự đem của qúy như mã la, ché đổi bắp để góp thêm cho cách mạng mau đánh thắng Mỹ.
Tác dụng của căn cứ miền núi trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước thật là to lớn. Từ năm 1954 đến nay, tuy phong trào chung trong tỉnh gặp những khó khăn chồng chất, có lúc tưởng chừng không vượt qua nổi, nhưng phong trào miền núi vẫn đứng vững và phát triển thế tiến công. Từ năm 1959 trở đi, phong trào miền núi đã đi trước phong trào chung một bước, chuẩn bị khởi nghĩa trước, nổi dậy trước, nổi dậy nhanh, xây dựng ngay thành vùng giải phóng, vùng căn cứ ngày càng vững mạnh, là nơi đứng chân của các lực lượng của tỉnh, là bàn đạp tiến công các mục tiêu đóng quân của địch, là hậu phương trực tiếp của các huyện đồng bằng. Đó là niềm tự hào, là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của các lực lượng cách mạng trong tỉnh.
VÙNG NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG
Vùng nông thôn Khánh Hòa nhỏ hẹp, thực chất là vùng ven thị xã, thị trấn và các trục đường giao thông chiến lược của địch. Cho nên địch quyết giữ bằng hệ thống chốt điểm quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên và cả một hệ thống tổ chức kìm kẹp, bình định dày đặc. Còn ta thì quyết sống chết mở rộng phong trào. Trong suốt cả năm 1967, nhất là trong chiến dịch mùa Thu năm 1967, các lực lượng vũ trang của ta đã quầng trụ đánh địch, tạo điều kiện cho các lực lượng khác hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh địch vận. Cuộc đấu tranh quyết liệt, đẫm máu. Địch thiệt hại nhiều, ta cũng bị thương vong tổn thất. Nhưng thành tựu ta đạt được rất lớn. Nhiều vùng làm chủ và tranh chấp được mở rộng tận vùng sâu, xây dựng được lực lượng chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên, du kích, qua đó nắm chắc được quần chúng.
Cùng với lực lượng vũ trang bám đánh địch, các đội công tác hoạt động ban ngày ở Hậu Phước, Hà Liên, Ngọc Diêm (Ninh Hòa), Cát Ném, Tân mỹ (Vạn Ninh), Thanh Minh, Phú Ân (Diên Khánh)... làm chấn động vùng sâu. Đội công tác Vĩnh Phương chỉ có 3 đồng chí đánh một tiểu đội quân Nam Triều Tiên ban ngày thu hai súng.
Các hình thức vũ trang tuyên truyền, mở mít tinh quần chúng vạch tội ác địch đã thực hiện được ở nhiều nơi như các xã Vạn Thạnh, Vạn phú, Vạn Phước... thuộc huyện Vạn Ninh; Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Đông, Ninh Diêm, Mỹ Lệ thuộc huyện Bắc Ninh Hòa; Ngọc Diêm Thượng, Hạ, Phong Ấp, Tuân Thừa thuộc huyện Nam Ninh Hòa; đột nhập vũ trang tuyên truyền tại ấp Cây Xoài, Suối Môn thuộc huyện Cam Ranh. Đại đội đặc công 91 tập kích địch tại cây số 2 - Ba Ngòi, diệt 1 trung đội nghĩa quân, thu vũ khí, lâu nay vùng này được coi là nơi an toàn của Mỹ-ngụy.
Nổi nhất là ở Bắc Khánh Hòa, từ đầu chiến dịch mùa Thu đã thanh viện, đại náo suốt bốn đợt, phối hợp nhịp nhàng làm chấn động một vùng rộng lớn. Một số đơn vị địch ở Lạc An, Chánh Bình, Lạc Bình phải chạy vào cứ điểm Nam Triều Tiên, vào quận lỵ, không dám hoành hành như trước.
Phong trào đấu tranh chính trị phát triển. Ở Bắc Ninh Hòa có 26 lần quần chúng đấu tranh, trong đó có bốn lần kéo đến nơi đóng quân của địch đòi không được bắn pháo vào làng, 150 đồng bào xã Ninh Diêm đấu tranh không đi bỏ phiếu, 15 lần kéo vào quận đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng, vạch tội ác bọn ngụy quyền quận, xã. Ở Nam Ninh Hòa, Diên Khánh, có những đoàn 50, 70 người kéo đến cứ điểm địch đấu tranh đòi bồi thường nhà cửa bị địch bắn sập, có lần chúng phải bồi thường 143.000 đồng, đưa người bị thương đi bệnh viện, đấu tranh chống địch rải hóa chất độc phá hoại hoa màu, đấu tranh được đi làm biển. Đồng bào thôn Vĩnh Bình (Cam Ranh) đấu tranh không cho phá vườn tược, buộc chúng phải nhượng bộ cho xe đi đường khác, 50 quần chúng thôn Tam Ích (xã Ninh Lộc) kéo về quận đấu tranh đòi không bắn pháo vào giàn rớ của đồng bào, quận trưởng Ninh Hòa phải chấp nhận.
Công tác binh địch vận cũng có kết quả tốt. Trên 300 tên địch đào rã ngũ, hàng chục sĩ quan hạ sĩ quan ngụy, có người quân hàm đại úy, cả đại diện xã, chủ tịch phong trào cách mạng quốc gia huyện là nội tuyến của ta.
Tình hình và những con số trên đây tuy còn thấp so với yêu cầu chuẩn bị thực hiện phương hướng chiến lược của Trung ương Đảng, nhưng đối với phong trào cách mạng trong tỉnh nó có giá trị lớn, nói lên sự tiến bộ bước đầu trong những cố gắng chịu đựng gian khổ hy sinh, thực hiện quầng trụ, bám, xây dựng thực lực bên trong của các lực lượng cách mạng trong tỉnh. Chính nhờ đó, ta đã tạo những điều kiện thuận lợi bước vào triển khai những đợt tiến công lớn đầu năm 1968.
PHONG TRÀO THỊ TRẤN, THỊ XÃ
Cuộc sống ở đây ngày một thêm khó khăn, vật giá cao vọt, tiền lương không tăng. Tiền công trung bình một tháng 2.000 đồng, nhưng tiền cơm đã 1.500 đồng. Giá thịt heo 300 đồng một kilôgam. Rất nhiều người đổ vào làm sở Mỹ, nhưng hay bị sa thải bất thường, bị bạc đãi, khinh rẽ. Số người buôn bán cũng khó làm ăn vì vật giá bấp bênh. Nghề biển bị đói vì không ổn định, địch cấm một số vùng, phạm vi đánh cá hẹp lại, nhưng chủ yếu là vì bị địch bắt lính trắng trợn, thanh niên không dám đi biển làm ăn.
Quân Mỹ và chư hầu ngày càng đông lên, vung tiền ra ăn chơi, hống hách, dâm loạn. Riêng khu vực Vĩnh Nguyễn, Vĩnh Trường tập trung trên 700 gái điếm. Hình thành nhiều nhóm ma cô chạy gái điếm cho Mỹ. Hàng tháng đều có chị em bị bọn Mỹ hiếp chết rồi bỏ xác vào thùng đem đổ theo các đống rác.
Địch tuyên truyền nhiều trên báo chí tranh ảnh về kết quả Hội nghị Hô-nô-lu-lu15, tổ chức triển lãm vũ khí nói là lấy được của ta trong chiến thắng mùa mưa. Bằng các hình thức tinh vi và trắng trợn, địch phát hành các sách báo tuyên truyền thuyết hiện sinh, phổ biến tranh ảnh phụ nữ lõa thể.
Nếp sống đồi trụy đã làm hư hỏng rất nhiều thanh niên nam, nữ. Nạn cao bồi, lưu manh phát triển.
Báo cáo của Nha cảnh sát quốc gia Vùng II chiến thuật ngày 4-8-1967 có đoạn viết: "Qua các thư từ trao đổi, Nha tôi nhận thấy có nhiều người thuộc mọi thành phần xã hội than phiền về giá sinh hoạt đắt đỏ tại Nha Trang... Quân nhân, công chức, sống tình trạng thiếu thốn".
Báo cáo ấy còn trích thư của ông Nguyễn Qúy Khách mỹ nghệ gia ở số 13 Lê Lợi, Nha Trang gửi ông Nguyễn Qúy Thương ở Pháp.
"Cái giàu của dân Việt Nam (miền Nam dưới chế độ của ngụy) là giàu giả tạo, không có căn bản, đua nhau sắm máy thu thanh, ti vi, xe gắn máy, xe hơi. Ai có những món ấy hãnh diện lắm. Có người có tủ lạnh, có khi để trống rỗng, trả tiền điện hết hồn. Có người có xe hơi 3 tháng một chiếc, 5 tháng một chiếc, một hai năm sau lại dùng xe gắn máy, xe đạp.
"Vì quân đội Mỹ nhiều, xài tiền nhiều, có tiền viện trợ Mỹ xài thả cửa, không lo trang bị nhà máy sản xuất, không lo khuyếch trương công kỹ nghệ. Mấy kỹ nghệ thiết yếu lại ở trong tay ngoại kiều. Sự phồn thịnh không có căn bản, khi không nước nào viện trợ nữa thì trở tay không kịp, nghèo vẫn nghèo".
Tinh thần ghét Mỹ và chống Mỹ lên cao. Việc vạch cái xấu của Mỹ đã trở thành vấn đề thời sự hàng ngày. Ngay một số người làm việc trong ngụy quân, ngụy quyền cũng công phẫn chống lại Mỹ. Các thủ đoạn tuyên truyền viện trợ Mỹ nhằm cải thiện đời sống nhân dân đã bị quần chúng vạch trần. Những người trước đây tin Mỹ, phục Mỹ, tỏ ra ngày càng thiếu tin tưởng. Nhân sĩ, trí thức và những người có tư tưởng tiến bộ lén địch nghe trộm đài phát thanh Hà Nội đã củng cố được tinh thần dân tộc của họ.
Tình hình trên đây là một nhân tố thúc đẩy cuộc đấu tranh của quần chúng bùng nổ. Sôi nổi nhất là làn sóng đấu tranh của thanh niên và đồng bào theo đạo Phật ở Nha Trang từ tháng 3 đến tháng 10-1966. Ban đầu là các cuộc hội thảo của sinh viên, học sinh. Ngày 25-3 nổ ra cuộc biểu tình của 500 người với yêu sách đòi lật đổ Thiệu-Kỳ. Sau đó liên tiếp có những cuộc biểu tình quần chúng. Hàng vạn quần chúng họp mít tinh, chiếm Ty Thông tin tỉnh, đập phá phòng Thông tin Mỹ với khí thế bừng bừng. Ngày 3-4 địch đưa thiếu tướng Đoàn Văn Quảng làm tổng trấn Nha Trang. Hắn đã ra lệnh thiết quân luật, kiểm soát gắt gao các ngả đường từ nông thôn vào thị xã, dùng báng súng, lưỡi lê, lựu đạn cay tấn công số thanh niên đang chiếm trụ sở. Ngày 2-5 nổ ra cuộc tuyệt thực của 50 người để truy điệu các thanh niên học sinh ở Đà Lạt bị Thiệu Kỳ giết hại. Các cuộc hội thảo và triển lãm ảnh về tội ác của địch ở Đà Lạt có hàng trăm người dự.
Ngày 19-4-1966, hàng ngàn công nhân cảng Cam Ranh bãi công đòi tăng lương, được nhân dân Ba Ngòi ủng hộ, buộc chủ thầu phải chấp nhận yêu sách.
Các phong trào nói trên chứng minh quần chúng đô thị, nhất là thanh niên rất nhạy bén về chính trị. Một số tên đầu sỏ phản động đội lốt tôn giáo ra sức hoạt động chia rẽ phong trào. Các đồng chí của ta hướng cho thanh niên nắm vững tổ chức và khẩu hiệu đấu tranh, vạch mặt bọn này trước quần chúng.
Tuy bị đàn áp nhưng phong trào đấu tranh của Nha Trang vẫn diễn ra liên tục bằng các hình thức rất phong phú. Đội công tác Đông-Nam là đội đông nhất, mạnh nhất của Nha Trang gồm trên 10 đồng chí. Các chi bộ Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường đều gồm những đảng viên sống hợp pháp, có một số làm công nhân khuân vác bến tàu. Tại bến cảng Hải quân ở Chụt, các tàu Mỹ nối đuôi bốc dỡ hàng, các kho bãi đầy ắp phương tiện chiến tranh. Đồng bào khu vực cảng hợp sức với lính ngụy bảo vệ cảng lấy cắp hàng Mỹ. Có người mua được cả thùng lựu đạn do lính ngụy lấy được để gửi cho ta. Lính ngụy lấy cắp hàng Mỹ đem giấu ở các hải đảo, nhưng không qua được con mắt của đội công tác. Anh em lại có dịp "tịch thu" số hàng này làm qũy. Trong khi ở căn cứ khó khăn về lương thực, thực phẩm thì ở đây là Hòn Tre hay Bãi Miễu, Hòn Tầm, Hòn Một ta đều có điều kiện tích trữ lương thực. Cái khó là từ đây đi về căn cứ Đồng Bò rất nguy hiểm. Vì tàu, ca nô của địch tuần tra vùng biển ngày đêm. Tuy vậy, ta cũng có cách, các cơ sở nội thành Nha Trang vẫn xoi đường bảo đảm tiếp tế thường xuyên cho căn cứ Đồng Bò.
Điều đáng sợ đối với Mỹ-ngụy là tự vệ mật, một loại hình vũ trang hoạt động hợp pháp trong lòng địch, đã có những thành tích nổi bật từ treo cờ, rải truyền đơn vào cư xá, cứ điểm quân sự trong thị xã, thị trấn, cho đến các hoạt động vũ trang táo bạo tiêu diệt địch. Trong những tháng cuối năm 1967, tự vệ mật Nha Trang đã đánh 18 trận, diệt hàng trăm địch, trong đó hàng chục sĩ quan Mỹ, 35 sĩ quan Nam Triều Tiên, 100 nhân viên ngụy quyền gồm: công an, cảnh sát, mật vụ, diệt gần hết 2 ban tề xã Nha Trang Đông, Vĩnh Thái.
Riêng trận đánh Câu lạc bộ sĩ quan Mỹ N.O.C trên đường Duy Tân (đường Trần Phú) vào tối chủ nhật 3-8-1967) ta đã diệt và làm bị thương hàng trăm tên.
Tháng 10-1967, ta phối hợp chặt chẽ với cơ sở ở Bãi Trũ và đội công tác mũi Đông-nam tổ chức tập kích căn cứ địch ở Hòn Tre. Nhờ công tác chuẩn bị chu đáo, chỉ không đầy 30 phút, ta đã diệt 307 tên Mỹ của tiểu đoàn công binh công trình Mỹ, phá hủy 1 giàn ra đa, 2 hệ thống tên lửa, 1 cụm vô tuyến viễn thông, làm hư hỏng nặng đài phát sóng truyền hình.
Với lòng quả cảm tuyệt vời và mưu trí, đánh giỏi, chỉ một vài tổ chiến sĩ ta đã lập được những thành tích xuất sắc.
Phối hợp với các hoạt động nội thành, một đơn vị thuộc đại đội đặc công K90 do đồng chí Hạnh, đại đội trưởng, đồng chí Huỳnh, chính trị viên đại đội chỉ huy diệt cứ điểm Gò Bông vào đêm 31-12-1967.
Gò Bông là một chốt điểm nằm trong hệ thống cứ điểm phòng ngự vòng ngoài của Nha Trang, gồm Gò Bông, Bình Tân, Thủy Tú thường xuyên do một trung đội tăng cường của đại đội 3, tiểu đoàn trung dũng biệt kích Mỹ án ngữ. Chốt điểm này được hỏa lực của cụm pháo 155 và 105 milimét chi viện từ sân bay Nha Trang khi nó bị tiến công. Nó cũng được chi viện bằng máy bay theo yêu cầu cần thiết khi chiến đấu. Trận đánh diệt cứ điểm của bộ đội ta diễn ra nhanh gọn, làm cho bọn địch ở Gò Bông bị đứt liên lạc với cấp trên của chúng ngay từ đầu. Do vậy, khi quân ta đã làm xong nhiệm vụ rút đi rồi mà cấp trên của chúng vẫn chưa hay biết.
Đây là lần đầu tiên, một cứ điểm có công sự tương đối vững chắc của địch bị diệt gọn trên địa bàn Nha Trang bằng cách đánh của đặc công. Điều đó mở ra một khả năng mới cho lực lượng tập trung nói chung và binh chủng nói riêng tại chiến trường Khánh Hòa. Mặt khác, chiến thắng Gò Bông còn là một tiền đề trong bước tạo thế, nhằm rút kinh nghiệm đánh những chốt điểm ngoại vi, chuẩn bị cho cuộc tiến công lớn vào Nha Trang.
Tỉnh ủy đánh giá cao các mặt hoạt động của Nha Trang. Báo cáo tổng kết của Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 5-1968 cho rằng phong trào Nha Trang trong những tháng cuối năm 1967 là "Nổi bật nhất trong tỉnh, làm chấn động toàn tỉnh, toàn miền, nhất là tự vệ mật đã liên tiếp đánh địch và diệt địch đậm trong thành phố, vốn xưa nay địch cho là an toàn nhất".
CUỘC TIẾN CÔNG TẾT MẬU THÂN
Vào những tháng cuối năm 1967, mặt cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Trên cơ sở so sánh thế và lực cụ thể có lợi cho ta, bất lợi cho địch, xuất phát từ nhận định tác động sâu sắc của những thất bại ngày càng nặng nề của chiến tranh Việt Nam đối với tình hình chính trị nước Mỹ và nhận định thời cơ thuận lợi, có khả năng kéo Mỹ xuống thang để thắng Mỹ, chuyển cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng vào tháng 12-1967 đã hạ quyết tâm: "Động viên những cố gắng lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển mới, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt để giành thắng lợi quyết định".
Khánh Hòa mở chiến dịch mùa Thu năm 1967 là nhằm chuẩn bị thực hiện phương hướng chiến lược trên đây của Đảng. Dựa vào Nghị quyết của Khu ủy tháng 9-1967 để chuẩn bị cao trào tiền khởi nghĩa, cuộc họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng với Ban chỉ huy mặt trận tiền phương tỉnh vào cuối tháng 11-1967 đã soát xét lại tình hình các mặt và ổn định nhiệm vụ của tỉnh. Đầu tháng 12-1967, nghị quyết được quán triệt cho cán bộ các cấp, các ngành trong tỉnh dưới hình thức chỉnh huấn cho tất cả 3 khối quân, dân, Đảng. Cơ quan chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện ủy được chuyển xuống sát đồng bằng, thị xã, hợp nhất 2 huyện Bắc và Nam Ninh Hòa. Trong tháng 1-1968 công tác chuẩn bị được triển khai hết sức khẩn trương, tập trung một lực lượng tương đối lớn cho trọng điểm Nha Trang.
Quyết tâm của Tỉnh ủy là đánh một số điểm then chốt lợi hại trong thị xã, tập trung vào các cơ quan đầu não Mỹ, ngụy và chư hầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang dao động, phát triển tiến công các cơ quan và lực lượng vũ trang địch còn lại, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Lực lượng tiến công vào Nha Trang gồm tiểu đoàn 7 trung đoàn 20 (Sao Thủy), 3 đại đội đặc công, 1 đại đội công binh, 2 trung đội địa phương Nha Trang - Vĩnh Xương. Tổng số lực lượng vũ trang tham gia tấn công Nha Trang có gần 500 đồng chí. Về hỏa lực có 4 cối 82 ly, 2 ĐKZ75, 1 đại liên, 5 cối 60 ly. Tiểu đoàn 8 trung đoàn 20 đứng chân ở phía Bắc bến đò Xuân Phong sẵn sàng chờ lệnh. Lực lượng dự bị là tiểu đoàn 9 trung đoàn 20 đang công tác tại Ninh Hòa, sẽ điều động cho Nha Trang trước "giờ G".
Ban Chỉ huy mặt trận chung toàn tỉnh mang ký hiệu K.5 được thành lập do đồng chí Nguyễn Ngọc Hoanh - Tỉnh đội trưởng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Viết Thuận - Trung đoàn trưởng trung đoàn Sao Thủy làm chỉ huy phó, đồng chí Phạm Thành Huyên (Ba Huệ) - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa làm chính ủy. K.5 quyết định thành lập Ban chỉ huy tiền phương do đồng chí Trần Chiến Lược - Trung đoàn phó trung đoàn Sao Thủy làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Tụng - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Bí thư Thị ủy Nha Trang làm chính ủy tiền phương đi sát cùng các đơn vị vào trong thị xã. Ban chỉ huy mặt trận chung toàn tỉnh (K.5) đóng cơ quan ở đầu suối Kim Liên, gần đỉnh Năm Nọc. Sở chỉ huy tiền phương đóng ở thôn Vĩnh Hội (Ngọc Hiệp).
Tỉnh ủy tăng cường cho Nha Trang khá đông cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Hàng trăm anh chị em cán bộ và cơ sở nội thành được huy động gấp rút chuẩn bị các phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho chiến dịch. Một số khá đông cơ sở lo cắt cờ hòa bình có in hình chim bồ câu, in truyền đơn. Họ còn giúp tiền bạc, xe cộ, thức ăn và trên 300 bộ quần áo biệt kích cho bộ đội ta cải trang. Các công việc ấy được tiến hành gọn gàng, trót lọt và giữ được tuyệt đối bí mật trước "giờ G".
Thường vụ Khu ủy Khu V quyết định thành lập 1 chi bộ gồm 6 đồng chí do đồng chí Nguyễn Thị Lễ (Mười Minh) làm bí thư, vào tăng cường cho Nha Trang bằng con đường hợp pháp. Chi bộ có nhiệm vụ tổ chức và lãnh đạo quần chúng ở các khu vực Hà Ra, Xóm Mới, khu Máy Nước, chuẩn bị kế hoạch phối hợp đánh chiếm đài phát thanh, vận động quần chúng sẵn sàng chuẩn bị khi thời cơ đến thì xuống đường đấu tranh giành chính quyền.
Trong chỉ đạo thực hiện, Tỉnh ủy động viên cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Nha Trang quyết tâm thực hiện mệnh lệnh do đồng chí Kiều Hoàng (Lâm) đại diện Khu ủy Khu V truyền đạt chỉ tiến hành 1 phương án đánh chiếm lĩnh, rồi trụ lại đánh địch phản kích, chứ không lui ra vùng ven Vĩnh Xương như đã dự kiến, phát động làm lễ ra quân, quyết tử để giải phóng quê hương.
Mặc dù gian khổ hy sinh nhưng cán bộ và chiến sĩ bước vào trận chiến với tinh thần lạc quan và quyết tâm rất cao "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ban chỉ đạo chung của Tỉnh ủy gồm các đồng chí Nguyễn Hồng Châu - Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Tô Văn Ơn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Võ Cứ - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Hòa - Chính ủy trung đoàn Sao Thủy cùng 1 bộ phận tổ chức gọn nhẹ có điện đài để liên hệ với Khu, đóng cơ quan tiền phương tại ven rừng thôn Đại Điền Nam để theo dõi chỉ đạo cuộc tiến công và nổi dậy trong toàn tỉnh, đặc biệt theo dõi chỉ đạo trọng điểm Nha Trang bằng đường dây hợp pháp.
Lúc 20 giờ đêm 29 Tết, Thường trực Tỉnh ủy nhận điện của Quân khu bảo đình lại để qua tối mùng Một Tết mới đánh. Nhưng mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng, cuộc chiến đấu sắp nổ ra, không thể nào hoãn kịp. Do đó, Thường trực Tỉnh ủy quyết định không phổ biến lệnh này xuống các đơn vị, đồng thời gửi điện khẩn về Quân khu xin cho tiến hành như kế hoạch đã định. Chỉ vài giờ sau, Thường trực Tỉnh ủy nhận được điện của Quân khu trả lời: "Nhất trí cho tiến hành". Bức điện do đồng chí Hai Mạnh (tức Chu Huy Mân), Tư lệnh Quân khu ký. Được sự chấp thuận của cấp trên, đúng theo kế hoạch, cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân Khánh Hòa diễn ra đồng loạt, đều khắp các quận lỵ và thị trấn, thị xã.
Tại Nha Trang, trưa ngày 29 Tết, lễ xuất quân tổ chức tại gộp Mậu Thân (Đồng Bò). Sau đó đoàn quân lên đường, khoảng 17 giờ cùng ngày qua Eo Gió, 18 giờ đến núi Thái Thông nghỉ chân, chuẩn bị hành quân đêm. Khoảng 1 giờ 30 sáng mùng Một Tết (tức 0giờ 30, giờ Hà Nội), các đơn vị tiến công vào Nha Trang đến vị trí tập kết cuối cùng tại sông Phường Củi (Vĩnh Hội). Cối 82 do đồng chí Phương, cán bộ của thị đội dẫn đường, do không nắm được giờ Sài Gòn đi trước giờ Hà Nội một tiếng đồng hồ, nên mới 23 giờ rưỡi đêm giao thừa 29 Tết đã nổ súng vào sân bay Nha Trang, làm cháy kho đạn tại sân bay; địch phải dời số máy bay quanh đó đi ngay trong đêm. Tình hình này làm cho địch có sự đề phòng, ra lệnh thiết quân luật trong toàn thành phố. Những tiếng còi rú lên inh ỏi từ hướng sân bay. Những loạt đạn pháo nổ ầm ầm liên tiếp và những ngọn đèn dù từ máy bay C47 tung ra, treo lơ lửng sáng rực cả bầu trời phía Tây Nha Trang.
Cánh quân chủ yếu có nhiệm vụ đánh vào Tỉnh đường (cánh A) vừa qua sông xong, có 3 xe ô tô chờ sẵn tại vị trí đã hẹn để chở đến các mục tiêu:
- Xe Lampro, mang biển số HA/5515 chở 20 quân vào Tỉnh đường do anh Trần Văn Cháu lái.
- Xe Jeep, chở 20 quân đánh vào Tiểu khu do anh Trần Đình Mười lái.
- Xe Peugeot chở quân vào đánh Sở Tiếp vận 5 do anh Thái Thông lái.
Đây là những chiếc xe của cơ sở và chủ xe tự lái lấy. Chiến sĩ thuộc các đại đội đặc công K90, K91, mặc quần áo cải trang lên xe (quần áo biệt kích). Vì xe chật nên một số chiến sĩ của đại đội 3 (tiểu đoàn 7, trung đoàn 20) chạy bộ.
Mặc dù trong thành phố đã có lệnh báo động, thiết quân luật, nhưng xe cộ và người đi bộ vẫn đi lại nhộn nhịp trong đêm giao thừa đón xuân. Nhờ vậy mà đoàn xe của ta đàng hoàng bon trên đường phố, tiến thẳng đến mục tiêu đã định không bị cản trở. Thời gian lúc đó là 2 giờ sáng ngày mùng Một Tết. Quân ta nhanh chóng, hình thành thế bao vây địch chặt, đánh thốc vào sở chỉ huy, khu điện đài, làm tê liệt địch ngay từ phút đầu chúng không kịp trở tay. Trên cả 3 mục tiêu: Tỉnh đường, Tiểu khu, Sở Tiếp vận 5, quân ta hợp đồng chiến đấu nhịp nhàng ăn khớp. Sau hơn 10 phút, quân ta hoàn toàn làm chủ cả khu vực, diệt và làm bị thương số lớn quân địch, trong đó có tên thiếu tá Dương Văn Sang, trưởng khối chiến tranh chính trị của Sở Tiếp vận 5, số còn lại chui rúc tìm cách tháo thân hoặc đầu hàng quân giải phóng. Tên trung tá Lê Khánh, tỉnh trưởng kiêm trưởng tiểu khu Khánh Hòa thoát chết do anh em ta không biết mặt.
Lúc này sự chống cự của địch rất yếu ớt, thừa thắng ta phát triển đến đường Yersin, Duy Tân (nay là đường Trần Phú).
Cánh B gồm đại đội đặc công 88 và đại đội 2 tiểu đoàn 7 trung đoàn 20, sau khi qua khỏi bến đò Kim Bồng, vì bị lạc đường mãi đến 2 giờ sáng ngày mùng Một Tết (31-1-1968) mới tiếp cận mục tiêu đài phát thanh, đã triển khai chiến đấu dũng cảm diệt trung đội nghĩa quân trên đồi Trại Thủy. Sau đó phát triển sang hướng ngã Sáu - Nhà Thờ, định tiến ra phía bờ biển nhưng gặp các đơn vị địch ra ngăn chặn, lực lượng ta phải chiến đấu quyết liệt, sau đó trở lại trụ ở đồi Trại Thủy. Một bộ phận bám đường xe lửa, dùng B40 bắn sập một góc đài phát thanh, hạ một trực thăng nhưng chưa chiếm được đài.
Cánh C do đại đội 1 tiểu đoàn 7 trung đoàn 20 tiến quân khi đến cánh đồng Thủy Tú, Vĩnh Xuân (Vĩnh Thái) thì cũng vừa lúc pháo ta đánh vào sân bay, địch phản pháo, thả đèn sáng nên ta tiếp cận mục tiêu chậm. Tuy vậy quân ta vẫn chiếm được bót Ông Đề, Cô Châu, tiến công tiểu đoàn 65 truyền tin, tiểu đoàn vận tải, đại đội công binh cầu nổi.
Cánh quân phối hợp gồm 1 trung đội công binh có nhiệm vụ phá cầu Xóm Bóng, chặn địch từ trường Hạ sĩ quan Đồng Đế sang tiếp viện. Lực lượng ta từ Núi Sạn tiến qua Ngọc Thảo, khi gần tiếp giáp với cầu Hà Ra, bị địch phát hiện. Ta nổ súng tiêu diệt một số tên lính bảo vệ, nhưng không phá được cầu. Bọn địch ở đây khá đông, ta buộc phải rút lui về Núi Sạn.
Từng tốp cố vấn Mỹ, ngụy quân, ngụy quyền lui dần về chợ Xóm mới, sân bay. Những tên công an cảnh sát lột bỏ quân phục, mặc thường phục, tay xách nách mang, kéo vợ con hòa vào dòng người di tản. Qua loa phóng thanh, tên tổng trấn Đoàn Văn Quảng vẫn nhai nhải: "Nếu binh sĩ và nhân viên nào không trở lại quân ngũ và nhiệm sở ngay bây giờ sẽ bị trừng trị theo quân luật". Tuy hăm dọa thế, nhưng tá lo đằng tá, lính lo phận lính, chúng vẫn bám và cùng di tản với gia đình. Mãi đến 4, 5 ngày sau, chúng mới lần lượt kéo nhau về đơn vị cũ trình diện.
Nhiều đợt phản kích của địch bằng bộ binh có xe tăng và xe bọc thép yểm trợ, đều bị quân ta bẻ gãy. Ở khu vực Tiểu khu, Tỉnh đường, Sở Tiếp vận 5, tiểu đoàn biệt kích nhảy dù Mỹ mở rất nhiều đợt xung phong, bị thương vong rất lớn, ngay cấp "chỉ huy bị thương và bị sát hại đến 80%"16, nhưng không sao chiếm lại được những vị trí đã mất.
Bọn địch lồng lên như con thú dữ bị trọng thương. Bộ chỉ huy Việt-Mỹ-Hàn đã phải ra lệnh dùng máy bay hủy diệt các mục tiêu bị quân ta chiếm giữ. Thế là những quả đạn rốc-két, bom phá, bom na-pan từ trên máy bay dội xuống, từ tàu thủy bắn vào làm hư hại nặng Tiểu khu, Sở Tiếp vận 5, làm sập một góc Tòa Hành chính tỉnh.
Bom đạn của địch cũng dội xuống các khu phố đông dân, làm chết và bị thương nhiều người, triệt hạ một phần Xóm Cồn, thiêu hủy hàng trăm nóc nhà ở khu Máy Nước, Cô Châu.
Trong thành phố những đám cháy bốc lên dữ dội. Tiếng bom đạn nổ liên hồi không dứt. Ở khu vực Tiểu khu, Tỉnh đường, Sở Tiếp vận 5, quân ta đã có nhiều đồng chí thương vong, nhưng quyết không rời trận địa. Bảy chiến sĩ ta trụ lại trên lầu 2 của Sở Tiếp vận 5, dùng B40 và AK diệt nhiều địch và hai xe bọc thép V.100 ở ngay trước cổng, chiến đấu hy sinh cho đến người cuối cùng. Đồng chí Hoàng Hiệp (tức Nguyễn Thái Tôn) Trưởng tiểu ban đặc công của tỉnh và đồng chí Lê Văn Hạnh, chỉ huy trưởng đại đội đặc công K90 hy sinh anh dũng tại đây, đồng chí Cao Minh Phi, trưởng ban an ninh thị xã hy sinh anh dũng tại đường Sinh Trung, sau khi đã dùng súng ngắn diệt địch. Đồng bào đã tặng bộ đội ta "Gang thép hơn thép gang"
Ở khu đồi Ông Phật (đồi Trại Thủy) quân ta chiếm đỉnh đồi, dùng các loại hỏa lực đánh lui nhiều đợt xung phong của các cánh quân địch. Khoảng 17 giờ ngày mùng Một Tết, do đạn dược còn rất ít, trận địa quá căng thẳng, nên quân ta chủ động rút về hướng Bắc, qua sông Kim Bồng. Thấy ta im tiếng súng, bọn ngụy liền dò dẫm lên chiếm đồi. Cùng lúc quân Nam Triều Tiên dùng máy bay trực thăng đổ chụp trên đỉnh đồi. Thấy quân ngụy, tưởng là "Việt Cộng", bọn chúng liền nã súng. Bọn quân ngụy đang tiến lên đồi bất ngờ bị nổ súng, tưởng là đang bị quân ta bao vây. Chúng bèn chiếm các ngôi chùa, các ngôi nhà ở lưng đồi để chống trả. Thế là trong cơn hoảng loạn hấp tấp, quân Nam Triều Tiên và quân ngụy bắn lầm nhau làm thiệt mạng nhiều tên.
Sáng mùng Một Tết, tiểu đoàn 8 trung đoàn 20 (trung đoàn Sao Thủy) từ Bắc bến đò Xuân Phong vượt sông vào tiếp sức cho Nha Trang, đến khu vực thôn Xuân Bình thuộc xã Vĩnh Trung, chờ bắt liên lạc, xin ý kiến chỉ đạo của Ban chỉ huy Mặt trận (K5), thì bị địch phát hiện nên cả tiểu đoàn phải đánh nhau quyết liệt với bọn bảo an từ Cam Ranh ra, tiểu đoàn biệt kích "Trung dũng" từ Diên Khánh xuống, tiểu đoàn biệt kích Mỹ từ Nha Trang lên. Địch dùng máy bay AD6 ném bom, bắn rốc-két. Toàn bộ nhà cửa ở xóm Xuân Bình (Mả Thánh) bị địch hủy diệt. Bộ binh ta bám sát bộ binh địch chiến đấu kiên cường, nên hạn chế được thiệt hại. Đúng 17 giờ ngày hôm ấy ta phải rút vào núi Chín Khúc.
Phối hợp với chủ lực, lực lượng tự vệ mật và biệt động thành tung truyền đơn, cờ hòa bình, gây tiếng nổ, dùng xe Hon-da chạy đánh địch trong thị xã. Đông đảo nhân dân các khu Hà Ra, Xóm Cồn, Phương Sài, Xóm mới... sẵn sàng xuống đường biểu tình, nhưng do tình hình phát triển không thuận lợi nên ta chưa huy động.
Trong chiến đấu, nhiều bà má, trẻ em đổ ra đường tiếp tế nước cho bộ đội, băng bó vết thương cho thương binh. Khi tình hình trở nên khó khăn, dưới hình thức phật tử đi làm việc nghĩa, quần chúng mang quà đến thăm thương binh của ta ở bệnh viện quân y Nguyễn Huệ, hoặc tổ chức bảo vệ tìm bắt liên lạc đưa chiến sĩ của ta về căn cứ.
Nói sao cho hết tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng ưu ái của nhân dân Nha Trang đối với cán bộ và chiến sĩ giải phóng. Các cơ sở cách mạng bị địch bắt, tra tấn dã man, gia sản bị tịch thu, nhưng không hề khai báo, trong khi đó vẫn bình tĩnh nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ lãnh đạo nội thị ngay tại nhà mình bất chấp những cặp mắt cú vọ của bọn chỉ điểm, mật thám và sự lùng sục gắt gao của địch.
Ở vùng phụ cận Vĩnh Xương và các xã Diên An, Diên Toàn trước ngày N, tất cả cán bộ của huyện được phân công chỉ đạo các mũi, các đội vũ trang công tác đều bám sát quần chúng. Đêm 29 rạng sáng mùng Một Tết, các xã dều mở mít tinh, chuẩn bị lực lượng quần chúng sẵn sàng chờ lệnh kéo vào thị xã Nha Trang. Ở các thôn Đồng Châu, Vĩnh Điềm Thượng, mặc dù bị địch nã pháo vào địa điểm mít tinh làm cho một số cán bộ và đồng bào bị thương, nhưng cán bộ và nhân dân vẫn không nao núng. Đồng bào các thôn Phú Nông, Xuân Lạc, Phú Bình, Phú Vinh, Thái Thông đã tập trung sẵn sàng chờ lệnh. Liên tiếp trong các ngày 1, 2 và 3 Tết, ở các xã đều có thanh viện. Diên An nổ súng uy hiếp bót cầu Sông Cạn và rải truyền đơn. Các xã Vĩnh Ngọc, Vĩnh Hiệp mở mít tinh phát động quần chúng, Phú Vinh bắt 2 ủy viên hội đồng xã và 1 thám báo hạ uy thế trước quần chúng.
Phong trào ở huyện Diên Khánh, tác động trực tiếp đến Nha Trang. Ta đã đánh địch ở Diên Phước, Đại Điền Nam, pháo kích vào Thành Diên Khánh, vũ trang tuyên truyền, tiến công địch ở nhiều xã. Phối hợp với các mũi tiến công vũ trang, trong đêm giao thừa rạng sáng mùng Một Tết, trên 150 quần chúng thôn Đại Điền Trung do đồng chí Lương Duy Hiến, huyện ủy viên kiêm đội trưởng công tác làm trưởng đoàn, đồng chí Bùi Thị Tâm, tổ trưởng binh vận làm xung kích và một số cán bộ tỉnh, huyện tham gia làm nòng cốt, lãnh đạo kéo đến tiếp sức cho Nha Trang. Họ đi thành đội ngũ, trên ngực mỗi người đeo tấm băng với dòng chữ đỏ "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", tay cầm cờ hòa bình, cờ Mặt trận giải phóng miền Nam. Qua bao chặng đường có địch, đoàn làm công tác binh vận lướt qua. Nhưng lúc đến khu vực Mã Vòng, bọn địch quyết chặn lại xả súng bắn bừa vào đoàn biểu tình, làm chết 8 người, bị thương 20 người. Đồng chí Nguyễn Hồng Hải (tức Hòa), Phó Ban an ninh tỉnh hy sinh. Tuy đoàn biểu tình chưa tiến được vào nội thành, nhưng đã biểu thị tinh thần kiên cường, bất khuất, tinh thần cách mạng tiến công trong Tết Mậu Thân. Trước khi giải tán, đoàn người hô to các khẩu hiệu "Việt Nam độc lập muôn năm!" "Hồ Chủ tịch muôn năm!", "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!". Những khẩu hiệu yêu nước vang lên lúc ấy có ý nghĩa giáo dục và động viên rất lớn.
Đến ngày mùng 5 Tết, tiếng súng diệt địch của các chiến sĩ ta vẫn còn nổ trong thị xã Nha Trang. Ở khu vực Tiểu khu, Tỉnh đường, cán bộ và chiến sĩ ta đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, kiên quyết bám trận địa. Ta đã diệt hàng trăm tên địch gồm các loại biệt kích, thám báo, bảo an, cảnh sát, dân vệ, Mỹ và Nam Triều Tiên. Số địch bị thương nhiều. Bệnh viện quân y Nguyễn Huệ chật ních thương binh, phải che tăng nằm ở ngoài. Bên ta 180 cán bộ chiến sĩ bị bắt và hy sinh (chủ yếu là bị bắt).
Cùng một lúc với trọng điểm, tại Cam Ranh đại đội đặc công 91 gồm 20 chiến sĩ tập kích sân bay Đồng Bà Thìn, đánh sập 3 lô cốt, phá hủy 12 máy bay lên thẳng. Một số đồng chí đặc công nước của đơn vị C93 đánh chìm một tàu trọng tải 8.000 tấn tại cửa Bình Ba vào đêm mùng 2 Tết.
Đơn vị pháo 561 tấn công chi khu Suối Dầu, pháo kích vào Bãi Chõi bán đảo Cam Ranh đúng "giờ G". Một đơn vị hỗn hợp 40 người gồm 25 chiến sĩ của lực lượng vũ trang và 15 cán bộ chính trị bám trụ xã Cam Tân một ngày, chiến đấu ngoan cường, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Nam Triều Tiên, ngụy, có máy bay hỗ trợ, diệt 32 tên địch. Bên ta 8 đồng chí hy sinh, 4 đồng chí bị địch bắt.
Lực lượng các huyện miền núi vừa lo sản xuất, bố phòng ở căn cứ, vừa góp sức người, sức của, làm nhiệm vụ hậu cần cho đồng bằng diệt địch. Xã Ba Cụm là nơi đứng chân cho các lực lượng tiến đánh Cam Ranh. Trên 1.500 nhân dân các xã Sơn Trung, Ba Cụm, Sơn Hiệp, Tô Hạp có nòng cốt là dân quân, du kích, mang cuốc xẻng phá đoạn đường xe lửa Suối Tân, Suối Cát, cắt đứt đường chi viện Cam Ranh - Nha Trang của địch.
Tại Vạn Ninh, lực lượng địa phương huyện và đội công tác tiến công vào thị trấn Giã gồm 70 người do đồng chí ủy viên Ban Thường vụ huyện ủy phụ trách chung, đồng chí Huyện đội trưởng trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Đoàn khởi hành từ Hòn Dứa hồi 3 giờ đêm giao thừa đến Giã thì vừa sáng ngày mùng Một Tết. Lực lượng vũ trang huyện lo triển khai làm 2 cánh tiến công địch. Số cán bộ làm công tác chính trị và binh vận thì huy động quần chúng xuống đường biểu tình. Đông đảo tín đồ phật giáo cũng được huy động tham gia. Tình hình thật sôi động. Đoàn người biểu tình đi thành đội ngũ chỉnh tề, tay cầm cờ hòa bình, cờ phật, cờ Mặt trận giải phóng tiến về hướng quận lỵ, chi khu. Lực lượng vũ trang huyện chiếm một số cơ quan ngụy quyền như phòng thông tin, trung tâm chiêu hồi quận. Đến 12 giờ trưa địch bắt đầu phản kích, tiểu đoàn Nam Triều Tiên đóng tại Núi Một nã cối 81 vào thị trấn. Máy bay L.19 thả bom cay xuống đoàn người biểu tình. Đồng thời 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên có xe bọc thép M113 yểm trợ từ căn cứ Hà Thanh kéo ra. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch đã diễn ra ác liệt. B40 của ta đã bắn cháy 1 xe M113 và hỏng 1 chiếc khác. Ta diệt gần 100 tên Nam Triều Tiên. Đến tối ta rút quân, 11 chiến sĩ hy sinh trong chiến đấu, 1 bị địch bắt và 2 chiến sĩ bị thương, cơ sở nội thị không bị bể vỡ.
Ở Ninh Hòa theo kế hoạch lực lượng vũ trang huyện tấn công vào thị trấn chia làm 2 cánh: cánh Bắc đánh vào chi công an và trung tâm huấn luyện dân vệ, cánh Nam đánh vào chi khu, đồng thời cũng là trụ sở ngụy quyền quận. Ban chỉ huy gồm các đồng chí thường vụ huyện ủy do đồng chí bí thư phụ trách chung. Trong đêm giao thừa 29 Tết, một cánh quân từ phía Nam tiến vào thị trấn gặp cánh quân từ phía Đông lên. Tuy không liên lạc được với các đồng chí chỉ đạo bên trong, nhưng các lực lượng vũ trang của ta đã tiến công chi công an ngụy và trung tâm huấn luyện dân vệ huyện, trụ lại Xóm Rượu một ngày, đẩy lui nhiều đợt phản kích của địch, sau đó rút ra, tiếp tục đánh địch ở một số thôn sát quận lỵ. Phối hợp với các cuộc chiến đấu vũ trang, mờ sáng ngày mùng Một Tết, trên 600 quần chúng 2 xã Ninh An, Ninh Thọ trương cờ hòa bình, cờ Phật giáo, hô khẩu hiệu, kéo vào thị trấn. Dọc đường đoàn biểu tình giữ vững hàng ngũ, không nao núng trước sức uy hiếp của địch cố chia cắt và bắt cán bộ đi trong đoàn. Đoàn tranh thủ được lính Nam Triều Tiên đang chốt giữ trên quốc lộ I. Khi đến cống thôn Ninh Ích thì đoàn bị lính bảo an ngăn chặn nên không đến được quận lỵ Ninh Hòa. Tuy vậy cuộc biểu tình đã đi và về an toàn, biểu thị khí thế cách mạng cao của quần chúng, lòng dũng cảm của cán bộ và nhân dân trong những ngày sôi động Tết Mậu Thân. Trong khi đó, ở các xã trong toàn huyện, đội vũ trang công tác và cơ sở quần chúng cách mạng cũng đã triển khai các mũi tiến công chính trị, sẵn sàng chờ lệnh nổi dậy cướp chính quyền ở nông thôn và hỗ trợ cho nổi dậy của nhân dân thị trấn.
Đặc biệt cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Oanh 19 tuổi, quê ở thôn Mỹ Hiệp, thị trấn Ninh Hòa, đã cho lựu đạn nổ mặt giáp mặt diệt tên chi trưởng cảnh sát quận và 2 lính khi chúng đang vây nhà, xăm hầm. Cô đã hy sinh anh dũng trong trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân.
Sau cuộc tiến công đồng loạt, các lực lượng ta vừa củng cố tổ chức, vừa mở những đợt tiến công mới như pháo kích vào sân bay Nha Trang, cứ điểm Hà Thanh (Ninh Hòa), cứ điểm Tân Dân (Vạn Ninh), tập kích bọn Nam Triều Tiên bảo vệ giao thông, đánh sập cầu Ông Bộ. Về thực lực chính trị bên trong, nhiều cơ sở bị bắt, bị tù, bị đứt liên lạc, sau được móc nối tiếp tục hoạt động. Một vài đồng chí lãnh đạo còn ở lại nội thành. Các đội công tác ở các hướng Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thái, Hà Thanh, chợ Xóm Mới tiếp tục hoạt động.
Tính chung trong đợt tiến công địch từ 29 tháng 1 đến cuối tháng 2 năm 1968, ta đã loại ngoài vòng chiến 1.149 tên địch, trong đó có 10 Mỹ, 113 Nam Triều Tiên, 19 là sĩ quan cấp úy, tá, bắt trừng trị 8 tên ác ôn, phá hủy và bắn rơi 22 máy bay trực thăng (có 2 khu trục AD6), bị thương 6 chiếc. Đánh chìm 2 tàu thủy trọng tải 8.000 tấn, phá hủy 7 xe quân sự, bị thương 3 chiếc, đánh sập 2 cầu, 4 cống, 2 lô cốt, cháy 1 kho đạn, 1 nhà máy đèn, đánh sập nhiều nhà lính và cơ quan ngụy quyền ở khu vực Tiểu khu, Tỉnh dường, Sở Tiếp vận 5, phá đường sắt, đắp chướng ngại vật, làm gián đoạn giao thông trên quốc lộ số 1, số 21 và đường sắt từ 1 đến 3 ngày.
Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân tại Khánh Hòa nổ ra trong giờ phút đầu tiên của toàn miền và thực hiện mạnh mẽ ở trọng điểm Nha Trang, tiểu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, làm rung chuyển toàn bộ guồng máy thống trị của địch trong tỉnh, kéo dài hàng tháng, sau ngày N địch mới lập lại được trật tự cai trị.
Về phía ta, sự thiệt hại không nhỏ. Các đơn vị tiến công trong nội thành Nha Trang hầu hết hy sinh hoặc bị bắt. Ở các địa phương khác sự trả giá cũng khá đắt. Nhìn cục bộ ta thấy nhiều tổn thất. Nhưng nhìn chung, thắng lợi của Khánh Hòa với tỉnh lỵ Nha Trang trong Tết Mậu Thân đã góp phần cùng cả nước giành thắng lợi to lớn. Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 ở Khánh Hòa đã được Khu ủy Quân khu; Phân khu Nam, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Mậu Thân đánh giá một số nội dung chính sau:
- Khánh Hòa đã chấp hành nghiêm chỉnh cùng toàn miền Nam phối hợp tiến công bất ngờ vào đầu não của địch trong thị xã Nha Trang và các thị trấn, đánh phản kích dài ngày, đã góp phần vào thắng lợi của toàn miền Nam trong giai đoạn lịch sử. Thắng lợi của cuộc tổng tiến công Mậu Thân ở Khánh Hòa có ý nghĩa lịch sử quan trọng, để lại dấu ấn sâu sắc trong nhân dân.
- Cuộc tổng tấn công Mậu Thân ở Khánh Hòa đã phối hợp cùng cả nước làm đảo lộn thế tấn công chiến lược của Mỹ trên toàn miền Nam, phá vỡ trực tiếp kế hoạch mùa khô năm sau của Mỹ, phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay mưu đồ xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi lại đàm phán với ta ở Hội nghị Pari.
- Ta giữ được yếu tố bí mật bất ngờ đến giờ nổ súng (nơi địch cho là an toàn nhất), làm cho địch hoàn toàn bị động trong đối phó. Tuy nhiên do lực lượng quân sự giữa ta và địch quá chênh lệch, ta không đủ sức tiêu diệt gọn mục tiêu. Các lực lượng, các mũi tiến công phối hợp không nhịp nhàng để lỡ thời cơ.
Tuy nhiên, thực hiện nghiêm túc chỉ thị của trên, Ban chỉ huy mặt trận toàn tỉnh đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, đặt khả năng cao nhất để giành thắng lợi. Chỉ đạo thực hiện một phương án là chiến đấu đến cùng, khi gặp tình huống xấu cũng không được rút lui. Vì vậy, lực lượng ta bị tổn thất nặng nề, gây tâm lý bi quan trong nội bộ một thời gian dài.
Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa ngày 15-2-1968 đánh giá:
"Thắng lợi của tỉnh ta trong đợt vừa qua là rất quan trọng về nhiều mặt, đã đóng góp vào thắng lợi chung của toàn miền trong thời kỳ lịch sử. Tin tức thắng lợi của ta đã được đặt vào vị trí quan trọng trên toàn miền Nam".
Tết Mậu Thân ở Nha Trang - Khánh Hòa đã để lại 1 dấu ấn lịch sử sâu sắc, biểu thị khí thế hào hùng của quân và dân trong tỉnh, được Trung ương tặng thưởng 1 Huân chương Quân công, 1 Huân chương Thành đồng và 5 Huân chương giải phóng.
NHỮNG DIỄN BIẾN SAU TẾT MẬU THÂN
Tết Mậu Thân ta thắng lớn, nhưng sau đó ta gặp khó khăn không nhỏ. Đế quốc Mỹ tập trung sức củng cố tinh thần ngụy quân, ngụy quyền từ trung ương đến địa phương. Một mặt chúng dốc sức bắt lính đôn quân, bổ sung lực lượng sau những ngày rệu rã, mặt khác xua quân đi phản kích, lấn chiếm lại những vùng đã mất, mở nhiều cuộc hành quân cảnh sát lục soát bắt bớ, đánh phá hạ tầng cơ sở cách mạng ở cả thành phố và nông thôn. Đồng thời chúng mở những cuộc càn quét sâu vào căn cứ ta hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Chúng ra sức tăng cường phòng thủ hậu cứ (thị xã, quận lỵ, thị trấn, căn cứ quân sự) với nhịp độ khẩn trương như tăng cường công sự, dây kẽm gai, hầm ngầm, ánh sáng, tuần tra canh gác. Ở Bắc Ninh Hòa, chúng đóng thêm 2 chốt điểm Giòng Thanh ở phía Bắc thôn Xuân Phong, gò Cây Xay thuộc Đại Mỹ, mỗi nơi một đại đội quân Nam Triều Tiên.
Ở Cam Ranh, có một số đơn vị mới đến lo phòng ngự mặt Tây Cam Ranh và hải cảng, phi trường, xây dựng thêm nhiều công trình quân sự như bãi xe, trường bắn, cứ điểm bảo vệ giao thông, mở rộng đường xá, sân bay, củng cố các cầu.
Tính chất, quy mô và hoạt động của địch chứng tỏ chúng còn nhiều khả năng đánh phá ta, bung ra mạnh hơn ở bên ngoài và làm căng hơn ở bên trong. Từ tháng 4-1968 trở đi, địch càn quét liên tục và ác liệt, hết vùng này sang vùng khác. Mức độ càn dày đến nỗi không ngày nào là không có lính Nam Triều Tiên ở giáp ranh căn cứ, bìa rừng và các vùng giáp ranh. Càn quét và lùng phục, lùng phục và càn quét, chúng chà đi, xát lại, ngăn chặn các đường tiến quân của ta. Từ đường xe lửa lên các vùng căn cứ miền núi, dày đặc dấu chân đi lùng phục của lính Nam Triều Tiên. Lực lượng của ta có bám chặt dưới làng mới hoạt động được.
Nhưng lực lượng ta vốn đã ít, lại tập trung hầu hết cho đợt hoạt động Tết, cán bộ chiến sĩ bị tiêu hao nhiều mà chưa bổ sung được bao nhiêu. Lương thực, đạn dược còn rất ít. Cơ sở hợp pháp và bất hợp pháp ở thành phố và nông thôn bị vỡ nặng. Trong nội bộ, tư tưởng diễn biến phức tạp, trong một bộ phận cán bộ đảng viên và chiến sĩ biểu lộ tư tưởng hoài nghi thắng lợi Tết Mậu Thân, thiếu tin tưởng phấn khởi.
Các cuộc hội nghị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tháng 2, tháng 3-1968, khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, nghiêm khắc phê phán những tư tưởng sai trái nói trên. Lúc đầu trong nội bộ có phần thiếu thống nhất về hướng tấn công nông thôn hay thành phố là chính, tiếp tục khởi nghĩa ở thành phố hay đánh địch bình định ở nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu. Sau đó, Tỉnh ủy nhất trí đặt vấn đề chuyển lực lượng vũ trang về hoạt động ở nông thôn nhưng không được Phân khu Nam (Phân khu Quân sự) đồng ý nên nhiều đơn vị vẫn còn đóng ở căn cứ Đồng Bò để tiếp tục hoạt động ven thị xã Nha Trang.
Hội nghị Tỉnh ủy tháng 7-1968, được tiến hành tại hội trường Suối Cát thuộc căn cứ Hòn Dù (Vĩnh Khánh). Hội nghị vừa bắt đầu làm việc thì bị máy bay chiến lược B52 Mỹ ném bom, rồi quân Nam Triều Tiên đổ bộ đi càn. Hội nghị phải di chuyển nhiều lần. Lần sau cũng vẫn bị bom pháo bắn. Trong vùng Tỉnh ủy mở hội nghị, quân Nam Triều Tiên đổ dày. Hội nghị Tỉnh ủy tranh thủ, kết thúc sớm để tổ chức lực lượng đưa anh em về lại địa phương và chống càn. Đoàn cán bộ Bắc Triều Tiên có 3 người vào giúp ta vận động lính và sĩ quan Nam Triều Tiên cũng được tổ chức đưa về Khu an toàn.
Ở địa bàn Nha Trang, địch tung lực lượng càn quét vùng căn cứ lõm của ta hàng mấy tháng liền. Đồng thời chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét cỡ đại đội, tiểu đoàn, hoặc trung đoàn tăng cường vào căn cứ Đồng Bò, được sự chi viện trực tiếp của máy bay và pháo binh Mỹ từ thị xã Nha Trang. Đồng Bò nằm ở phía Tây-nam Nha Trang, cách trung tâm thị xã khoảng 6-7 km theo đường chim bay. Nơi đây có nhiều gộp đá liên hoàn, làm nơi đóng quân chống được bom, pháo của địch. Địch gọi đây là "Mật khu Đá Hang" mà địch liệt kê là "Mật khu quan trọng số 1 của "Việt Cộng" ở Khánh Hòa". Từ mật khu Đá Hang, các lực lượng chính trị, vũ trang ta ngày đêm bung ra đánh địch trên khắp các địa bàn Nha Trang, Vĩnh Xương và một phần Diên Khánh, nã đạn pháo và hỏa tiễn vào các cứ điểm và sân bay Nha Trang. Cũng chính từ nơi đây các lực lượng chính trị, vũ trang của ta xuất phát tiến công thị xã Nha Trang hồi Tết Mậu Thân. Vì vậy khi đã hoàn hồn và chấn chỉnh được lực lượng, bọn Mỹ, ngụy lại rắp tâm càn quét Đồng Bò, tập trung sức lực lớn nhất nhằm tiêu diệt "Mật khu Đá Hang".
Ngày 1 tháng 10-1968, tiểu đoàn biệt kích "Trung dũng" tiến công nơi đóng quân của đại đội 10 pháo binh trên đầu gộp Trung Sơn17. Dựa vào lợi thế các hang đá, toàn đại đội (C10) đã chiến đấu anh dũng, diệt trên 40 tên biệt kích, hạ 1 trực thăng, 2 tên Mỹ lái trực thăng bị cháy thui.
Sau những thất bại cay đắng của tiểu đoàn biệt kích "Trung dũng" trong cuộc hành quân đợt 1, bọn địch mở cuộc càn đợt 2 quy mô lớn hơn do sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên đảm trách. Lực lượng gồm trung đoàn 29 sư đoàn 9 Bạch Mã, 1 tiểu đoàn sư đoàn Mãnh Hổ. Lực lượng quân ngụy gồm bảo an, biệt kích làm nhiệm vụ phối hợp vòng ngoài ở bìa rừng, ven làng. Ba cụm pháo 105 và 155 milimét. Cụm pháo của sư Bạch Mã đặt tại Trảng Bằng, cụm pháo của Khu 23 chiến thuật đặt tại sân bay Nha Trang, cụm pháo của hạm tàu (cỡ 175-203 milimét) đậu ngoài khơi biển Nha Trang, túc trực pháo kích suốt thời gian diễn ra cuộc càn.
Ngoài ra còn các lực lượng phối thuộc gồm ĐKZ và cối thuộc biên chế trung đoàn 29 Bạch Mã, một tiểu đoàn công binh, toàn bộ số máy bay chiến đấu của sân bay Nha Trang và một số của sư Bạch Mã.
Mở đầu cuộc càn địch cho máy bay ném bom phạt, bom na-pan xuống các điểm cao. Tiếp đến trực thăng đổ công binh dọn bãi đổ bộ và chiếm lĩnh canh giữ. Suốt đêm 12-10, đoàn xe quân sự hàng trăm chiếc chuyển quân từ căn cứ Hà Thanh (Ninh Hòa) tập kết ở Trảng Bằng và sân bay Nha Trang.
Sáng ngày 13-10 các đại đội lính Nam Triều Tiên được hàng đàn máy bay trực thăng đổ xuống núi Đồng Bò. Chúng chia thành nhiều mũi từ trên các đỉnh núi tràn xuống, gặp ta ở đâu là đánh đó. Nếu không gặp, thì khi đã xuống sát chân núi, trực thăng lại bốc đổ lên, hình thành các mũi tiến theo các hướng khác. Cứ như thế "chải" cho sạch "Việt Cộng". Ở hướng Đông và Đông-bắc vùng căn cứ, đường chải dày kiểu chải răng lược.
Cuộc chiến đấu đã diễn ra cực kỳ ác liệt. Ta từ trong các gộp đá bắn ra, còn địch thì dùng lựu đạn, rốc-két, mìn rót vào các hang động. Chúng sử dụng đến cả các loại hóa chất độc và bom cay, bom hơi ngạt. Ta đã diệt hàng chục tên địch, bắn rơi một máy bay trực thăng. Nhưng hỏa lực của địch mỗi lúc một thêm dày đặc. Tốp máy bay của trận bom trước quay đi thì tốp sau lao đến và cứ thế phóng rốc-két và dội bom. Khói lửa của trận bom chưa tan thì từng bầy, từng bầy đạn pháo các cỡ đổ ập xuống khu rừng vừa bị oanh tạc, suốt nhiều tiếng đồng hồ như vậy. Nhưng các chiến sĩ và cán bộ ta nép mình vào các gộp đá, không ai bị thương vong, nhắm bắn gục từng tên Nam Triều Tiên chui vào gộp, hàng chục tên chết tại chỗ.
Tuy vậy, tình hình trở nên hết sức khó khăn. Lực lượng ta bị địch bao vây và vòng vây đang xiết chặt dần. Sau một tuần lễ, lương thực, đạn dược gần như cạn kiệt. Ở dưới làng địch lại hành quân, vây ráp, bắt bớ cơ sở, ngăn chặn nhân dân tiếp tế lương thực cho ta. Trong tình hình đó, ngày 21-10 ban lãnh đạo chống càn quyết định vừa chiến đấu, vừa rút khỏi vùng càn của địch. Lực lượng tiểu đoàn 7, đại đội 98, đại đội pháo, cơ quan chỉ huy tiền phương, Thị ủy, Thị đội, tiểu đội công binh và trung đội vũ trang của Thị đội tổ chức hành quân vượt vòng vây ngay trong đêm 21-10. Thỉnh thoảng bị địch phát hiện, ta phải trụ lại trong các gộp để chiến đấu. Một số địch bị diệt, nhưng ta cũng bị tổn thất nặng, trong đó có trạm xá tiền phương bị địch tàn sát dã man tất cả các bệnh nhân và người phục vụ.
Vùng núi Đồng Bò bị địch đánh phá, khui lục nhiều hang, gộp. Sau gần 1 tháng càn quét, sáng ngày 3-11 địch rút quân. Mỹ-ngụy rùm beng "loan tin chiến thắng", rằng đã "làm cỏ sạch" Việt Cộng tại "Mật khu Đồng Bò". Nhưng các đơn vị của ta đã lui về Suối Lùng, tổ chức nghỉ ngơi và tiếp tục mở những trận chiến đấu mới, một số đơn vị đã rút về hậu cứ an toàn. Bên trong nội thị và vùng ven các đội công tác, cán bộ, cơ sở hợp pháp vẫn bám sát dân để từng bước củng cố lại phong trào.
Đồng bào Nha Trang - Vĩnh Xương rất vui mừng biết lực lượng ta vẫn còn. Họ lại lo mua lương thực để tiếp tế cho cơ quan, bộ đội, gửi quà tặng thương binh, bệnh binh.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA LẦN THỨ NĂM
Tháng 11-1968, Đại hội đại biểu Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ năm được tổ chức tại Gia Ao (Vĩnh Sơn), có 106 đại biểu tham dự. Đại hội nhận định trong 4 năm qua, mục tiêu chủ yếu và cơ bản của địch là đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi địa bàn Khánh Hòa, xây dựng Khánh Hòa thành căn cứ quân sự, căn cứ hậu cần an toàn lý tưởng đã không thực hiện được. Trái lại, các lực lượng cách mạng vẫn bám chặt, không chỉ ở miền núi, đồng bằng nông thôn mà cả ở thành thị và ngày càng lớn mạnh. Đại hội biểu dương tinh thần cách mạng kiên cường của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh. Nêu bật thành công có tính chất quyết định của Đảng bộ là giáo dục cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ thấm nhuần đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng, yên tâm, phấn khởi bám chiến trường nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch và ở cách xa trung tâm chỉ đạo của Khu ủy. Đội ngũ cán bộ người địa phương đã đông đảo hơn và trưởng thành, đặc biệt số cán bộ người dân tộc thiểu số khá đông, rất trung thành, tận tụy.
Đối với một số vấn đề lớn như xây dựng tư tưởng tiến công địch, xây dựng thực lực bên trong, chỉ đạo thực hiện khâu bám dân, giáo dục cán bộ, đảng viên, vấn đề đoàn kết nội bộ, sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, Đại hội đã nghiên cứu tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học quan trọng soi sáng cho công tác sắp đến.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 21 đồng chí đã được thử thách qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, do đồng chí Nguyễn Hồng Châu làm Bí thư, đồng chí Tô Văn Ơn làm Phó Bí thư.
Ngày 3-11-1968, trong lời kêu gọi sau khi đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chủ tịch vạch rõ:
"Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc".
Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi".
Quyết tâm sắt đá của Đảng được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh.
___________
1. 2. Báo cáo tổng kết tình hình năm 1965 của Ty cảnh sát quốc gia ngụy quyền tỉnh Khánh Hòa.
3. Đã dẫn Báo cáo tổng kết...
4. Ngụy quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 209 NV thành lập thị xã Cam Ranh vào ngày 25-10-1965.
5. Claymore-mine: mìn định hướng, chứa nhiều viên bi nhỏ khả năng sát thương cao.
6. Theo báo cáo của ngụy quyền tỉnh Khánh Hòa, tháng 12 năm 1967.
7. Trích phiếu trình đại tướng Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam cộng hòa của Nha Tổng thanh tra quân lực ngày 21-8-1968.
8. Huyện Vạn Ninh đã tách khỏi Bắc Ninh Hòa đầu năm 1966.
9. 10. Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng tháng 7-1966.
11. "Đơn vị vành đai" do Quân khu đưa vào, nhằm mục đích bám sát và tiêu diệt lính Nam Triều Tiên tại các căn cứ của địch ở Khánh Hòa.
12. Báo cáo tại Hội nghị Đảng ủy Phân khu Nam 30-5-1967. Tài liệu lưu trữ tại bộ phận NCLS Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa.
13. Đồng chí Cương tham mưu trưởng trung đoàn đi duyệt phương án tác chiến ở Phân khu Nam, trên đường về lại Vạn Ninh bị địch phục kích lấy được bản kế hoạch tác chiến nhưng chỉ huy sở trung đoàn không biết. Ta vẫn triển khai lực lượng tập kết chuẩn bị xuất kích trường hợp rất nguy hiểm trường hợp rất nguy hiểm. Nhưng phản ứng của địch không kịp thời, ta đã kịp thời phát hiện cho lực lượng dừng triển khai quân và rút lui.
14. Trích Báo cáo của Tỉnh ủy 1965-1968.
15. Hội nghị giữa Tổng thống Mỹ Johnson và tay sai Thiệu-Kỳ, cam kết để cho Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
16. Trích "Cuộc tiến công và nổi dậy của V.C tại Nha Trang" rút từ cuốn "Những nét tổng quát về TCK-TKN của V.C" ấn hành tại Trung tâm ấn loát và ấn phẩm quân lực VNCH, Sài Gòn".
17. Gộp Trung Sơn: nơi ở của cơ quan huyện ủy Vĩnh Xương từ 1963-1965.
Tags:
Tác giả:
Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 2 đánh giá
Xếp hạng: 3 - 2 phiếu bầu
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (1930 - 2005) (31/01/2018)
- Phụ lục 2 (30/01/2018)
- Phụ lục (30/01/2018)
- Kết luận (30/01/2018)
- Chương XVIII - Đảng bộ Khánh Hòa lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2005) (30/01/2018)
- Chương XVII - Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (7/1989 - 1995) (30/01/2018)
- Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu (23/10/1945 - 12/1946) (30/01/2018)
- Chương V - Xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 10/1945) (30/01/2018)
- Chương IV - Cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám (1940 - 1945) (30/01/2018)
- Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đòi tự do, cơm áo và hòa bình (1936 - 1939) (30/01/2018)