CHƯƠNG VIII
NỖ LỰC PHẤN ĐẤU VƯỢT KHÓ KHĂN THỬ THÁCH, CHUYỂN PHƯƠNG CHÂM, PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH (1950 - 1952)
BƯỚC CHUYỂN KHÔNG THUẬN LỢI, PHONG TRÀO SA SÚT
Năm 1950 là năm có những chuyển biến quan trọng. Tháng 1-1950, nước ta thoát khỏi tình trạng bị cô lập. Các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã lần lượt công nhận và đặt ngoại giao với Chính phủ ta. Tháng 9-1950, quân ta thắng lớn ở biên giới phía bắc, giải phóng 35 vạn dân và một giải biên giới dài 750 kilômét.
Chiến thắng biên giới đánh dấu sự phát triển nhảy vọt về sức chiến đấu của quân và dân ta, về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta. Lực lượng kháng chiến của ta đã lớn mạnh nhất là về quân sự. Nhưng tình hình phát triển không đều, ở chiến trường chính, quân ta đã chủ động về chiến lược, nhưng tại các chiến trường phối hợp, phong trào du kích chiến tranh chưa đủ mạnh để kìm chế lực lượng địch. Tại chiến trường Nam Trung bộ địch vẫn giữ được thế chủ động.
Ở tỉnh Khánh Hòa những năm 1948 - 1949, phong trào tuy không đều ở Nam và Bắc Khánh, nhưng nhìn chung là một tỉnh có phong trào chiến tranh du kích phát triển, giữ vững đầu cầu phía nam của vùng tự do Liên khu 5. Tháng 12-1949 thực hiện chủ trương của Quân khu, trung đoàn 803 mở chiến dịch tại Nam Khánh- lấy tên chiến dịch Trường Chinh. Khi nghe tin, chiến dịch sẽ mở trên địa phương mình, cán bộ và đồng bào Khánh Hòa vô cùng phấn khởi. Lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích được huy động tối đa để phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực. Nhân dân tích cực tham gia dân công vận chuyển vũ khí, lương thực, tiếp tế nuôi quân, đóng góp tiền bạc, lúa gạo ủng hộ bộ đội. Đồng bào Nha Trang, Vĩnh Xương và nhiều nơi trong tỉnh tuy bị mất mùa, lúa gạo địch kiểm soát gắt gao, vẫn dành được một số gạo đưa lên chiến khu. Cơ sở của ta trong lòng địch quyên góp thuốc men, quần áo, tiền bạc gửi ủy lạo bộ đội. Nông dân vùng Đại Điền, Phú Lộc, Phú Cấp, Phú Nẫm, Xuân Phong... chuyển hàng ngàn giạ lúa và cối xay, cối giã lên núi Lúp (dân đặt tên núi này là núi Súng Cối). Hàng ngàn người tham gia dân công, xay lúa, giã gạo, nấu cơm tiếp tế cho bộ đội.
Chiến dịch đã không đạt được mục đích như đã đề ra ban đầu, nếu không nói là thất bại. Do chuẩn bị chiến trường không được chu đáo, binh đoàn vào trễ vì thời tiết, lại bị gián điệp nội bộ, và ý thức giữ gìn bí mật kém nên kế hoạch bị lộ, địch có thời gian đối phó. Trận giao chiến trong đợt đầu không thực hiện được. Đêm hoạt động mở màn không thu được kết quả, lại bị vỡ cơ sở địch vận1. Phương án tác chiến bị đảo lộn, không còn khả năng tiếp tục đánh thắng địch theo các mục tiêu đã định. Tiếp tế thiếu hụt vì dự trù không sát, chỉ căn cứ vào sức tiếp tế của địa phương, không chuẩn bị tiếp tế cho binh đoàn thật chu đáo từ vùng tự do. Do đó binh đoàn thiếu ăn, phải đi mang gạo, phải hành quân lưu động vì gạo, phải phân tán để có ăn, kế hoạch tác chiến không thực hiện được. Sức khỏe của bộ đội giảm sút, cán bộ địa phương trong hơn một tháng trời nỗ lực đã bị đau ốm nhiều, sinh ra bi quan, uể oải. Trong khi ấy, địch hoạt động mạnh ở làng, cản trở tiếp tế cho binh đoàn bằng các trận phục kích, bắt dân chúng đêm vào ngủ trong đồn, cấm ghe thuyền để ngăn đường liên lạc của ta. Chúng vẫn duy trì công việc thường xuyên là thu thuế, phát cạc, phá cơ sở ta dưới làng.
Tháng 2-1950, binh đoàn rút ra vùng tự do. Trên chiến trường còn hai bộ phận nhỏ phụ trách các công tác đặc biệt là bộ đội 300 phụ trách vùng dân tộc Ba Ngòi, bộ đội 256 phụ trách tây tiến, mỗi đơn vị chỉ gồm từ một đến hai trung đội. Trong khi đó, bộ đội địa phương chưa phát triển đúng mức, trừ huyện Ninh Hòa có đủ một đại đội, các huyện Vĩnh Xương, Cam Ranh, Diên Khánh, Vạn Ninh mỗi huyện chỉ có 1, 2 trung đội, Nha Trang có đơn vị 252, lực lượng khoảng trung đội. Sau đợt bổ sung cho các đơn vị chủ lực và đại đội độc lập của trung đoàn, du kích thoát ly xã tổng số 642 người trong đó có 242 nữ, vũ khí thiếu, mỗi xã chỉ có từ 2 đến 7 súng trường.
Với các sự kiện này, chứng tỏ phong trào kháng chiến Khánh Hòa sau chiến dịch Thu- Đông đang trong bước sa sút và khó khăn. Lực lượng quân sự của ta còn quá nhỏ yếu “không đủ sức gây tác động mạnh đến cơ sở chính trị và cầm cự tích cực với địch”2.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ NHẤT
Sau chiến dịch Trường Chinh, Ban chỉ huy Trung đoàn 803 và Tỉnh ủy Khánh Hòa đều có những hội nghị kiểm thảo rút kinh nghiệm. Các đồng chí đều thấy tình hình phong trào đã xấu đi, nhưng xấu đến mức nào thì chưa có sự đánh giá đầy đủ. Tư tưởng chung của các đồng chí lãnh đạo còn đang phấn khởi với chủ trương chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Trong hoàn cảnh ấy, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất được triệu tập.
Đại hội họp tại Hòn Ngang (Hòn Hèo), trên 100 đại biểu thay mặt cho 2.949 đảng viên toàn tỉnh đã về dự. Riêng việc đại biểu từ các xã, huyện về dự họp đông đủ đã là một thắng lợi quan trọng, bởi vì các con đường từ xã đến huyện, từ huyện đến tỉnh thường bị địch phục kích, xảy ra thương vong.
Đại hội vắng mặt đồng chí Võ Phước Lý (tức Tước) một đồng chí phó bí thư tỉnh ủy dày dạn chiến đấu, có kinh nghiệm và đồng chí Trương Minh Viễn, trưởng công an tỉnh, bị địch bắt và hy sinh trên biển khi đang trên đường đi dự hội nghị cán bộ Liên khu vào cuối năm 1949.
Đại hội họp từ ngày 10 đến ngày 17-3-1950. Báo cáo chính trị của Tỉnh ủy trước đại hội do đồng chí Tôn Thất Vỹ, bí thư Tỉnh ủy trình bày, đã vạch ra khuyết điểm lớn của Tỉnh ủy là chưa chỉ đạo được công tác quân sự, nhất là đối với lực lượng chủ lực đứng chân tại địa bàn, chưa tạo được mối quan hệ gắn bó giữa Tỉnh ủy với lực lượng này. Trong chiến dịch Trường Chinh, ý thức lãnh đạo có tiến bộ hơn. Mặc dù, trong thời gian chiến dịch diễn ra có đại diện của tỉnh bên cạnh ban chỉ huy để phối hợp lãnh đạo, nhưng đối với kế hoạch toàn bộ của chiến dịch chỉ một vài đồng chí lãnh đạo chủ chốt trong tỉnh ủy biết. Mối liên hệ giữa Tỉnh ủy và Chính ủy chưa được xác định rõ. Chính ủy đóng cơ quan xa Tỉnh ủy (tại Phú Yên), vị đại diện chính ủy tại Khánh Hòa không có những quyền hạn cần thiết. Chưa có một hội nghị nào của Tỉnh ủy hay của Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Chính ủy tham gia để nhận định tình hình và vạch kế hoạch quân sự thống nhất cho toàn tỉnh.
Về lãnh đạo chính trị, báo cáo của Tỉnh ủy trước đại hội nhấn mạnh công tác vận động quần chúng, công tác này vốn là một công tác căn bản của Đảng. Lúc này đối với tỉnh ta, nó quan trọng hơn bao giờ hết bởi vì địch đã thành công trong việc dồn dân, rào làng, bắt dân đi ngủ đồn, tập trung lúa gạo và triệt để phong tỏa ta về các mặt nhân lực, tài lực. Bản báo cáo viết: “Thật vậy, vùng địch kiểm soát dân cư đông đúc, tài sản dồi dào, là nguồn dự trữ tiếp tế cho địch, nhưng cũng là nguồn dự trữ tiếp tế cho ta, nếu không giành lại được thì địch mạnh nhờ nguồn bồi dưỡng ấy mà ta thì héo mòn đi, không biết bồi dưỡng vào đâu, khó lòng duy trì sức kháng chiến. Đó là một vấn đề sống chết của ta”.
Đại hội cũng dành nhiều thời gian để bàn về vấn đề xây dựng Đảng. Báo cáo này do đồng chí Lê Thái Hòa ủy viên Ban Thường vụ, trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy trình bày. Bản báo cáo kiểm điểm về mấy vấn đề then chốt trong công tác xây dựng Đảng là chống tư tưởng sai lầm, trau dồi đạo đức cách mạng, mở rộng phê bình và tự phê bình, sửa đổi phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng bộ và một số vấn đề về chính sách cán bộ.
Bản báo cáo ghi nhận những tiến bộ trong công tác phát triển Đảng. Số đảng viên đến cuối năm 1949 là 2.949 đồng chí (933 chính thức, 2.016 dự bị), so với con số hồi đại biểu hội nghị tháng 2-1949 tăng gấp 5 lần. Bản báo cáo viết: “Số đảng viên được kết nạp phần nhiều đã có nhiều thành tích chống giặc, có năng lực chiến đấu, có sức lãnh đạo quần chúng. Những đồng chí ấy là những đồng chí cán bộ giỏi giang, trung thành, làm việc trong các cơ quan hay giữ những vai trò trọng yếu trong quần chúng, đã nguyện sống chết với giặc, có ý thức khá về Đảng. Những đồng chí ấy đến nay phần nhiều là những cán bộ có năng lực, rải rác ở khắp thôn xã, đến huyện tỉnh”.
Tỷ lệ số đảng viên nữ tăng nhanh, phản ánh năng lực thực tế và công lao to lớn của giới phụ nữ. Thực tiễn chứng minh trong những lúc phong trào kháng chiến gặp khó khăn, phần lớn công việc ở thôn xã, nhất là công tác tại vùng địch hậu đều do chị em phụ nữ đảm nhiệm. Chi bộ Ngọc Sơn (Vĩnh Xương) có 30 nữ đảng viên chiếm 40% tổng số đảng viên. Các chi bộ Khánh Phú, huyện Diên Khánh có 29 nữ đảng viên chiếm 46% tổng số đảng viên. Các chi bộ ở huyện Vĩnh Xương đều có trên 20 nữ đảng viên, nhưng chỉ có hai nữ đồng chí làm bí thư và một tham gia huyện ủy. Vai trò quan trọng của cán bộ nữ chưa được nhận thức đúng, và chưa quan tâm đúng mức.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành mới gồm 13 đồng chí: Tôn Thất Vỹ, Mai Liêm, Lê Thanh Liêm, Lê Thái Hòa, Hồ Ngọc Nhường, Lê Đoan, Trần Nguyên Tích, Đặng Vinh Hàm, Nguyễn Kim Toàn, Lê Huy Phát, Nguyễn Sinh, Lưu Văn Trọng, Nguyễn Đức Trí. Tôn Thất Vỹ bí thư, Mai Liêm phó bí thư, Lê Thái Hòa, Hồ Ngọc Nhường, Lê Thanh Liêm, Lê Đoan là ủy viên Ban Thường vụ. Về sau bổ sung thêm các đồng chí Mai Dương phụ trách Mặt trận, Lương Phan Hồ tỉnh đội trưởng.
Lực lượng kháng chiến có sự trưởng thành nhất định. Sau gần 5 năm, Khánh Hòa đã hình thành một bộ máy kháng chiến hoàn chỉnh, có Uỷ ban kháng chiến hành chính và các cơ quan chuyên môn cần thiết, có Tỉnh đội và hệ thống lực lượng vũ trang gồm dân quân, du kích và những đơn vị bộ đội địa phương, có mặt trận Liên-Việt và các đoàn thể quần chúng, có bộ máy của Đảng lãnh đạo từ chi bộ đến tỉnh, và điều quan trọng là nhân dân đã được thử thách qua các bước thăng trầm của cuộc kháng chiến và gắn chặt với Đảng. Đó là những nhân tố đảm bảo cho kháng chiến lâu dài và đưa cuộc kháng chiến đến toàn thắng.
Tại chiến trường Khánh Hòa địch đã chuyển sang dùng chiến tranh tổng lực, kết hợp cả quân sự, chính trị, kinh tế để bình định vùng tạm chiếm, tranh giành lực lượng dự trữ với ta. Chúng đã xây dựng được hệ thống tháp canh, cứ điểm và các đội quân ứng chiến. Ba lực lượng ấy kết hợp rất chặt chẽ, để càn quét đánh phá phong trào du kích chiến tranh, tập trung lúa gạo, tập trung dân ngủ đồn, bắt giết cán bộ, đồng thời ráo riết thi hành chính sách chiêu an với những thủ đoạn chính trị giả nhân, giả nghĩa để ru ngủ và lôi kéo quần chúng. Trước tình hình đó, ta thiếu sự nghiên cứu phân tích sâu sắc để có một chủ trương toàn diện, chưa thật sự bám sát và kiên trì vận động nhân dân.
Đại hội họp dưới khẩu hiệu “Chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Khẩu hiệu đó không được hiểu đúng đã phần nào gây ra tư tưởng nóng vội chủ quan.
Đồng chí Nguyễn Xuân Hữu sau khi dự khóa II trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc ở Việt Bắc, được Liên khu ủy phân công làm bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa, thay đồng chí Tôn Thất Vỹ về Liên khu nhận nhiệm vụ khác. Tháng 8-1950, đồng chí về đến căn cứ Hòn Hèo, truyền đạt cho Tỉnh ủy và Đảng bộ nhiều kiến thức mới về chiến tranh nhân dân, về thống nhất lãnh đạo quân sự của cấp ủy đảng. Nhưng đối với vấn đề chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, đồng chí truyền đạt cho Tỉnh ủy và cán bộ theo cách đặt vấn đề giản đơn, vội vàng, có ảnh hưởng quan trọng chi phối sự lãnh đạo của Tỉnh ủy3. Đối với công tác thì thiên về tổ chức bộ máy quy mô, hình thức. Tổ chức hội nghị quân sự Đảng tại suối Cổ Cò, Ninh Tịnh, nêu lên nhiều chỉ tiêu phát triển lực lượng chính trị có tính nhảy vọt để có sức chuyển mạnh sang tổng phản công. Sau hội nghị đó, những tuần lễ tổng động viên, tuần lễ giết giặc, tuần lễ chống ngủ đồn, tuần lễ giành lúa liên tiếp được đề ra, chẳng những không giải quyết được khó khăn mà tình hình tiếp tục phát triển xấu thêm, gay gắt hơn.
LỰC LƯỢNG CỦA ĐỊCH
Về quân sự: Bước vào năm 1950, lực lượng của thực dân Pháp tại chiến trường Khánh Hòa có khoảng 7.000 tên, trong đó 70 đến 80% là ngụy binh. Lực lượng ấy thuộc vùng Nam Trung bộ và cao nguyên: (Zône sud d’Annam et haut plateaux), Bộ chỉ huy đóng tại Nha Trang.
Trong phạm vi tỉnh Khánh Hòa, địch có hai phân khu: phân khu Ninh Hòa, cơ quan chỉ huy đóng tại thị trấn Ninh Hòa, kiểm soát khu vực từ Lương Sơn ra đến Đại Lãnh - Vũng Rô và xã Hòa Xuân ở phía bắc đèo Cả thuộc tỉnh Phú Yên. Phân khu Khánh Hòa, cơ quan chỉ huy đóng tại Thành Diên Khánh, kiểm soát khu vực từ Lương Sơn vào đến vùng Cà Rôm - Hiệp Mỹ (huyện Cam Ranh). Ở thị xã Nha Trang, Cam Ranh có các quân trấn (place) trực thuộc Bộ chỉ huy vùng.
Lực lượng bộ binh địch bố trí thành một hệ thống cứ điểm, tháp canh dọc các đường giao thông chiến lược và cắm sâu vào thôn xóm. Năm 1950 có 124 cứ điểm và trên 100 tháp canh. Nơi địch đóng nhiều cứ điểm và tháp canh là hai huyện Ninh Hòa, Diên Khánh mỗi nơi trên 30 cứ điểm, tháp canh. Vĩnh Xương huyện ngoại vi Nha Trang có gần 20 cứ điểm và trên 30 tháp canh.
Về hải quân có một đội (escadre) gồm 4 tàu tuần dương (dragueurs), hai tàu con thoi tuần tra (vedette). Về không quân, sân bay Nha Trang thường xuyên có trên dưới 10 máy bay và một đơn vị 50 lính bảo vệ sân bay.
Các đội quân ứng chiến tăng thêm. Mấy tháng đầu năm 1950, mỗi huyện chỉ có một đại đội, đến cuối năm tăng lên gấp đôi. Một trong những khó khăn nghiêm trọng của địch trong cuộc chiến Việt Nam là luôn luôn bị thiếu hụt về quân số, nên chúng tăng cường bắt lính để xây dựng lực lượng địa phương thay thế cho chủ lực, nhất là lính Âu-Phi rút đi chiến trường khác. Bằng những thủ đoạn vừa khủng bố cưỡng bức, vừa mua chuộc, năm 1950 chúng bắt được 700 thanh niên vào lính, năm 1951, bắt trên 2.000. Những lớp huấn luyện cho lính ngụy được tổ chức ở Cam Ranh, những lớp đào tạo sĩ quan ngụy được mở tại Nha Trang.
Về chính trị: Cơ quan hành chính của thực dân Pháp ở tỉnh Khánh Hòa là Đê-lê-su-da (chữ viết tắt của Delegation du sud d’Annam). Cơ quan này chỉ huy về hành chính các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Sử dụng vào công việc này có hệ thống ngụy quyền. Trên có tỉnh trưởng, dưới có các quận và thị xã. Mỗi quận có quận trưởng. Quận trưởng chỉ huy các chánh, phó tổng, hội tề và các đồn thân binh trong quận. Ở những nơi có cơ sở kinh tế quan trọng như Suối Dầu, Hòn Khói và ở những vùng có nhiều nhân tài, vật lực, chúng đặt chức bang tá để trông coi các tổng lân cận. Mỗi thôn có lý trưởng, hương kiểm, hương bộ, hương bản, hương dịch. Với bộ máy tề, ngụy năm 1951 địch đã kiểm soát được phần lớn số dân trong tỉnh. Nhưng không phải là địch đã sử dụng được hết thảy nhân tài, vật lực bởi lẽ cuộc chiến đấu không ngừng diễn ra ở nông thôn, có những lúc rất ác liệt, bọn tề gian bị trừng trị.
Từ sau chiến thắng lớn của ta ở biên giới phía bắc, đế quốc Mỹ tìm cách can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương. Ngày 19-3-1950, hai tàu chiến Mỹ cập bến Sài Gòn. Hơn nửa triệu nhân dân Sài Gòn- Chợ Lớn biểu tình phản đối, kết quả là Mỹ phải rút tàu chiến khỏi Sài Gòn. Trong khi đó, bọn ngụy quyền tay sai lại rất vui mừng. Chúng đưa tin quân Mỹ đến Sài Gòn để giúp Bảo Đại, bắt dân chúng treo cờ Mỹ, tổ chức những cuộc biểu tình hoan hô Mỹ. Báo chí và truyền đơn của chúng đề cao Bảo Đại, Trần Văn Hữu, cố làm cho dân chúng tin tưởng thực dân Pháp “trao trả” chủ quyền cho Việt Nam, tổ chức các buổi lễ “trao trả” cơ quan đốc lý, ty công an, ty cảnh sát cho tỉnh trưởng bù nhìn, tổ chức những cuộc “bán đồn” cho Bảo Đại do quận trưởng đứng ra mua, bắt dân góp tiền để trả cho Pháp4.
Càng về sau các thủ đoạn chính trị giả nhân, giả nghĩa, lộn sòng của địch càng xảo quyệt. Những tên cầm đầu mà dân chúng quá căm ghét bị thay thế. Hoàng Thúc Linh, khi nhận chức tỉnh trưởng thay Hoàng Phúc Hải đi kinh lý các địa phương, hứa hẹn quyền lợi. Trần Văn Lý, chủ tịch Hội đồng chấp chánh Trung Việt, vào đầu năm 1950 đến Nha Trang lập tòa án xét xử một số tên gian ác bị nhân dân căm ghét mà chúng không thể che dấu.
Về kinh tế: Thực dân Pháp và bọn tay sai tìm mọi cách để vơ vét. Năm 1950 chúng gia tăng kiểm kê và rất tích cực trong việc tập trung lúa vào đồn. Chúng đóng thêm tháp canh, bổ sung thêm lính cho các đồn ở những vùng có nhiều lúa. Thường là trước mùa lúa chúng khủng bố ráo riết đồng bào, thu liềm hái, dụng cụ, cấm các lò rèn. Đến mùa, điều động nhân công chỗ không có lúa đến vùng có lúa để gặt. Đối với các thửa ruộng ven rừng, chúng cho lính đến canh gác và bắt đồng bào gặt lúa lúc còn xanh. Hoa màu của đồng bào bị địch tập trung vào trong đồn và hàng tuần, hàng ngày phát ra cho đồng bào dùng. Hầu hết lương thực trong tỉnh bị địch tập trung, kiểm soát, sử dụng.
Báo cáo của Liên Khu ủy năm 1951 viết:
“Trong vùng tạm bị chiếm. Ở Khánh Hòa địch tập trung lúa, cả hoa màu phụ, chia bữa ăn hàng ngày. Đến mùa lúa, chúng tăng quân cứ điểm huy động dân chúng đi gặt rồi tập trung vào đồn”.
Ở những vùng đã dồn dân vẫn còn một số quần chúng giằng co bám giữ ruộng vườn. Bọn địch thường mở những cuộc càn quét, phá hoại mùa màng, bắn giết trâu bò và các thứ gia súc khác. Chúng bao vây phong tỏa các con đường tiếp tế, cắt đứt quan hệ kinh tế vùng ta và vùng chúng kiểm soát.
Về mặt tài chính, thực dân Pháp thu các thứ thuế điền thổ, thuế môn bài, thuế chợ... Riêng mỗi xe xích lô mỗi năm phải nộp tiền chỗ 30 đồng và nạp cho tỉnh trưởng 240 đồng. Số thuế thu về từ sở muối Hòn Khói, sở cao su Suối Dầu, sở dừa Hiệp Mỹ khá lớn. Riêng sở muối Hòn Khói, trong năm 1950, chúng thu đến 30 triệu đồng.
Năm 1952, so với các năm trước, các thứ thuế đều tăng, có thứ tăng rất nặng như thuế đầm đăng. Chúng còn đặt ra thu đảm phụ quốc phòng, bắt dân kê khai tài sản, đài thọ qũy nuôi quân, qũy mua đồn, qũy đóng tháp canh, ép dân mua vé xổ số. Ngoài ra còn tiền mua vé ca kịch, tiền phạt, tiền đóng góp cho ngân sách tỉnh. Các món thu này đã làm cho dân chúng xơ xác. Trong Báo cáo năm 1952 của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh đã phản ánh:
“Công việc sản xuất làm ăn của đồng bào bị hạn chế nhiều, thiếu giống, thiếu nước, thiếu trâu bò... Đến những nghề thủ công như dệt vải, bị hàng ngoại cạnh tranh nên phải chết. Dân chúng đã bị thiếu đói, lại bị địch bóc lột đủ điều nên ngày càng xơ xác, khí sắc uể oải, lo sợ.
Ở thành thị, một số công nhân, công chức bị sa thải (Nha Trang). Số anh em khuân vác ở Hòn Khói bị thất nghiệp, một số công nhân làm gỗ ở Cam Ranh do tàu không lại nên bị thiếu đói. Số buôn gánh bán bưng sống lay lắt qua ngày, chỉ có số thương gia và công chức cao cấp, thầu khoán thân Pháp là phát tài, sống đầy đủ, mặc dù cũng bị đóng góp cho địch nhiều”.
TÌNH HÌNH NHÂN DÂN VÀ CƠ SỞ
Tình hình chung trong các vùng tạm bị chiếm, địch đã cố hết sức tranh giành lực lượng dự trữ với ta. Hội nghị Trung ương Đảng (khóa II) lần thứ hai tháng 9-1951 nhận định: “Các vùng tạm bị chiếm trong toàn quốc, trừ Bình Trị Thiên, Hạ Lào, Tây Nguyên và một vài vùng ở Tả Ngạn, còn nói chung thì tiến bộ chậm, đôi nơi ngưng đọng, nơi nào tiến được đôi phần cũng rất chật vật”.
Ở Khánh Hòa dân chúng vùng gần núi, gần căn cứ, sát quốc lộ số 1, số 21 đều bị dồn. Một loạt thôn ở phía nam đường 21 như Tân Xuân, Tân Trúc, Ngũ Mỹ, Tân Lạc, Phước Lâm, Vân Thạnh bị đuổi đi. Dân Tân Xuân tản cư lên vùng Ba Bái. Nơi đây ta đã xây dựng thành vùng đóng cơ quan của Ban vận động thượng du Bắc Khánh lấy tên là khu Huỳnh Trượng5. Đồng bào lên vùng Ba Bái làm ăn không phải dễ dàng, phần đau bệnh, phần bị địch đánh phá. Số dân lúc đến trên 300 người mà năm 1952 khi rút về căn cứ Đá Bàn chỉ còn trên 10 gia đình.
Địch không chủ trương rào làng phổ biến như Ninh Thuận, mà ken dày cứ điểm và tháp canh vào tận thôn xóm để kiểm soát dân chúng, ra sức dồn dân những nơi nhận thấy khó kiểm soát, bắt dân ngủ đồn, tập trung lúa gạo về quanh đồn. Vùng Đầm Môn, Bãi Giếng, Điệp Sơn trước đây là vùng tự do của huyện Vạn Ninh, ở đó có một số cơ quan của huyện, các kho tàng của tỉnh, là đầu cầu quan trọng trên đường giao thông thủy của tỉnh giữa căn cứ Hòn Hèo và vùng tự do Phú Yên, là con đường vận tải gạo và các nhu yếu phẩm khác từ vùng tự do vào đến căn cứ của tỉnh. Năm 1949, chúng đuổi dân Điệp Sơn. Năm 1950, chúng đốt phá tất cả nhà cửa ở Đầm Môn, Bãi Giếng, dồn đồng bào vào Tân Mỹ (Giã), có một số chạy vào Nha Trang, Cam Ranh, cán bộ và cơ sở chạy lánh lên núi. Riêng đồng bào thôn Ninh Đảo, vốn quen sống bằng phát rẫy và khai thác lâm thổ sản, đã kiên quyết chống lại bằng cách chạy dạt vào rừng sống bất hợp tác với địch. Năm 1952, chúng lại đánh vùng Đầm Môn, Bãi Giếng (Vạn Ninh), đánh vùng Thủy Triều (Cam Ranh) cũng nhằm mục đích dồn nốt một số dân còn lại. Dân ở vùng Hòn Hèo (Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển) một số bỏ chạy về vùng địch hậu Nha Trang, Cam Ranh. Khác với các huyện khác, ở Cam Ranh, hầu hết nhân dân đều bị dồn vào các khu tập trung, có rào xung quanh, đặt bót gác, hàng ngày kiểm soát không cho nhân dân đi làm sớm, về muộn. Đây là vùng đất mà đồng bào, chiến sĩ ta gặp nhiều khó khăn gian khổ nhất trước sự o ép gắt gao của địch. Chúng còn bắt đồng bào thượng du vùng Sông Cạn, Dốc Quýt... tập trung gần đường xe lửa, đoạn từ Bà Râu (Ninh Thuận) ra Hiệp Mỹ.
Những nơi đồng bào tập trung ngủ đồn, bọn địch bày ra nhiều cảnh ăn chơi trụy lạc, đánh bài, hô bài chòi, rượu chè, trai gái, tổ chức các đoàn ca hát lưu động từ đồn này sang đồn khác, lập “thanh niên ca kịch đoàn”, “thanh niên thể dục đoàn”, cốt ru ngủ, lừa gạt làm cho một bộ phận nam, nữ thanh niên hòng làm cho họ quên nhiệm vụ kháng chiến.
Ngoài hình thức rải truyền đơn, đặt loa phát thanh ở các đồn gần rừng để kêu gọi cán bộ chiến khu về đầu hàng, bọn địch còn tổ chức các quán chiêu an, chiêu đãi sở để lôi kéo cán bộ.
Cơ sở quần chúng bị thu hẹp nhiều. Năm 1949, các đoàn thể công, nông, thanh, phụ tỉnh có trên 28.000 đoàn viên, hội viên đến năm 1950 số lượng hội viên, đoàn viên giảm một phần ba hoặc hơn một nửa6. Cán bộ xã, thôn bị thương vong nhiều trên đường đi công tác về làng. Vì lực lượng kháng chiến yếu, nên bọn địch “rộng chân”, khoảng bốn, năm giờ chiều còn đi sục sạo ở bìa rừng, thọc sâu vào núi tìm cách đánh úp cơ quan, bắn giết cán bộ.
Toàn tỉnh có 3.000 đảng viên cộng sản thì phần lớn trong lực lượng vũ trang và số cán bộ thoát ly ở chiến khu. Số đảng viên nằm trong dân rất ít, riêng Nha Trang có khá hơn, trong số 395 đảng viên toàn thị xã có trên 40 đảng viên sống hợp pháp tại nội thành. Năm 1951 cơ sở của ta ở ngành xe lửa bị vỡ, đồng chí bí thư chi bộ bị bắt. Tiếp đến nhiều vụ vỡ lỡ khác, hầu hết cán bộ nội thành bị lộ phải trở ra chiến khu. Đồng chí Lê Hồng Bảo, ủy viên Thường vụ Thị ủy, chính trị viên Thị đội được phân công làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở tại khu Tây (nay là phường Ngọc Hiệp) đã bị địch phục kích bắn chết tại Lư Cấm, trước khi đồng chí vào nhà cơ sở. Đồng chí Phạm Thị Huân, một nữ thị ủy viên trung kiên, người cán bộ thân yêu và tin cậy của nhân dân thôn Trường Đông (Vĩnh Trường) bị địch bắn, hy sinh trên biển. Tổn thất này kéo theo một loạt khó khăn mới. Trường Đông là nơi từ lâu cung cấp chủ yếu được coi là "bầu sữa" của căn cứ Nha Trang, nay bị địch đánh phá. Nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm và đồ dùng văn phòng tạm thời bị cắt đứt.
Một số cơ quan huyện và hầu hết các xã phải lo ăn từng bữa, lắm lúc bị đói. Ở Nha Trang, có một thời gian chỉ ăn dừa (dừa Sông Lô) với cá nên sinh ra lắm bệnh. Ở Vạn Ninh quanh năm ăn môn dóc với cải trời. Ở Cam Ranh thì đậu cút, bắp hầm. Tinh thần hy sinh và sức chịu đựng của cán bộ rất cao. Tuy đó đây, có cán bộ dao động bỏ việc, thậm chí về đầu hàng giặc, nhưng đó chỉ là trường hợp cá biệt. Trước sự chết chóc, hy sinh diễn ra hàng ngày, cán bộ đảng viên vẫn kiên cường bám trụ, thực hiện phương châm “kiên trì vận động cách mạng" do Liên Khu ủy và Tỉnh ủy đề ra. Hôm nay, có đồng chí hy sinh, hôm sau có người vẫn đi công tác, vẫn sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Nhân dân trong vùng địch vẫn hướng về Đảng và Bác Hồ kính yêu. Họ tìm mọi cách đùm bọc, nuôi dưỡng cán bộ. Địch thực hiện kiểm soát gắt gao, tập trung hết lúa gạo vào đồn và phát ra cho dân từng bữa. Trước mặt địch có những nông dân cố gắng ăn gấp đôi để được lãnh suất gạo gấp đôi về tiếp tế cho cán bộ. Nhiều bà mẹ giấu từng nắm gạo vào lọ, vào chai, vào thùng đựng nước hai đáy dành tiếp tế cho cán bộ. Không hiếm trường hợp các em chăn trâu vừa cảnh giới địch, vừa làm nhiệm vụ tiếp tế cơm cho cán bộ. Có em khi mang mo cơm ra đồng chỉ ăn một nửa, nửa còn lại nhường phần cho cán bộ ta. Khi phát hiện có địch, các em gõ vào những chiếc mõ treo ở cổ trâu báo cho cán bộ ta biết. Ở Cam Ranh, nhiều đồng bào ta đã theo dõi hoạt động của địch, rồi chỉ cho cán bộ ta đường đi, nước bước và cách giở rào của địch để vào các khu tập trung, bí mật tiếp xúc với dân, gầy dựng cơ sở.
Biết bao là sáng kiến của dân tìm cách liên lạc và giúp đỡ cho cán bộ hoạt động. Trong số hàng ngàn, hàng vạn tấm gương anh dũng của những bà mẹ kiên cường, tận tụy hy sinh cho sự nghiệp kháng chiến thắng lợi, có gương của má Phẩm, người thôn Ngọc Điềm, xã Dân Tiến (nay là xã Ninh Ích - huyện Ninh Hòa), má Nguyễn Thị Phòng, người thôn Vĩnh Điềm Thượng, xã Vĩnh Hiệp, thị xã Nha Trang. Khi đứng trước họng súng của quân thù, phẩm chất trong sáng và lòng dũng cảm của các má vẫn luôn hiên ngang, bình tĩnh, sẵn sàng hy sinh tính mạng để nuôi nấng và bảo vệ cán bộ, chiến sĩ.
XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA ĐÁ BÀN CỦA TỈNH VÀ CĂN CỨ CÁC HUYỆN
Trong năm 1948 và nửa đầu năm 1949, phong trào Bắc Khánh lên khá. Các con đường liên lạc trên bộ, trên biển từ căn cứ Hòn Hèo với các huyện trong tỉnh và vùng tự do Phú Yên luôn được khai thông. Lương thực tiếp tế từ vùng tự do Bình Định, Phú Yên vào được giải quyết tương đối thuận lợi, tuy có bị hư hao, mất mát, có trường hợp bị địch đánh phá gây tổn thất. Nhưng từ năm 1950, tình hình đã khó khăn hơn, địch rắp tâm đánh phá nhiều hơn. Các con đường từ Hòn Hèo tỏa đi các nơi và từ các nơi trở về Hòn Hèo không còn an toàn. Trước hoàn cảnh ấy, việc di chuyển cơ quan đến nơi có điều kiện xây dựng chỗ đứng mới là một nhiệm vụ cấp thiết. Lúc bấy giờ, danh từ chiến khu, xây dựng nơi đóng cơ quan theo kiểu chiến khu không còn phù hợp, nhưng nhận thức về căn cứ địa và điều kiện để xây dựng thành căn cứ địa cũng chưa mấy người nhận rõ. Bởi vậy, khi Tỉnh ủy đặt vấn đề chuyển lên Đá Bàn, một nơi núi non trùng điệp, xa làng mạc, một số vùng ven có dân như Xuân Sơn, Cung Hòa, Quảng Thiện, Lạc Hòa... đã bị địch biến thành vòng đai trắng và ở đó cũng rất cách bức với các huyện phía nam đã có nhiều người phân vân. Tuy nhiên qua thảo luận, xác định vị trí chiến lược miền Tây của tỉnh nên Tỉnh ủy đã quyết định chọn Đá Bàn.
Đá Bàn là một thung lũng rừng bằng, nằm ở phía tây-bắc huyện Ninh Hòa. Bốn bề có núi đồi bao bọc, phía tây là dãy núi Hòn Gục nối liền với núi Mẹ Bồng Con, phía bắc giáp vùng Xuân Sơn, Mỹ Đồng của huyện Vạn Ninh, phía nam có Dốc Dài xuống vùng Tân Lâm, Tân Tứ để băng qua đường 21 vào phía nam, phía đông liền với Bến Ghe và Sở Lô, đi ra các thôn Ngọc Sơn, Lạc Ninh giáp quốc lộ số 1.
Từ đầu năm 1951, Tỉnh ủy cử một bộ phận đi thăm dò, khảo sát. Đến tháng 3-1951 tất cả các cơ quan Tỉnh ủy, Uỷ ban kháng chiến hành chính, Tỉnh đội đều dời đến địa điểm mới.
Khi mới đến Đá Bàn, ta chưa có con đường nào khác từ Liên khu vào ngoài con đường Dốc Mõ, vượt qua dãy núi giáp ranh hai tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa. Dốc Mõ có thể nói là con đường bộ độc đạo từ vùng tự do Phú Yên vào. Trước kia đi về cơ quan đầu não của tỉnh là con đường Dốc Mõ - Hòn Hèo, thì nay là con đường Dốc Mõ - Đá Bàn. Trên con đường này, bọn địch phục kích ngày đêm, giết hại nhiều cán bộ và chiến sĩ ta. Theo sáng kiến của đồng chí Ma Cao, người Ê-đê rất am hiểu địa thế vùng này, Ban cung cấp do đồng chí Tôn Thất Chí phụ trách đã mở đường Dốc Nón, rồi đường Dốc Chanh xa hẳn Dốc Mõ, xa hẳn đồn Mỹ Đồng. Dốc Chanh không phải là thấp nhưng so với Dốc Nón, nó lài hơn, dễ đi. Trên con đường này, cán bộ, bộ đội, dân công tải gạo ra vô thường xuyên và an toàn.
Mở được con đường tương đối thuận lợi và an toàn nối liền nơi đóng cơ quan của tỉnh với vùng tự do Phú Yên, điều đó đã đem lại một sức mạnh tinh thần, một sự ổn định trong sự lãnh đạo của tỉnh. Mở con đường nối được với Phú Yên là nối được với cả vùng tự do Liên Khu 5,7 là tạo được đường dây thông suốt và bền vững để tiếp nhận sự chỉ đạo và hỗ trợ của Liên khu.
Do khó khăn về lương thực, nên khi mới đến Đá Bàn, bộ máy của các cơ quan, mặc dù đã trải qua hai đợt tinh giảm biên chế, vẫn phải rút gọn hơn nữa. Các cơ quan chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể chỉ tồn tại trên danh nghĩa, còn thực tế thì thống nhất lại thành bộ máy quân, dân, chính, đảng, gồm ba ban: Ban chính trị, Ban quân sự, Ban cung cấp. Ở cấp huyện, cũng tổ chức lại, gọn nhẹ hơn. Riêng các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh được hợp nhất thành huyện Bắc Khánh, tổ chức Đại hội Đảng bộ của hai huyện để bầu ra Ban chấp hành mới do đồng chí Đặng Vinh Hàm, tỉnh ủy viên làm Bí thư. Ở cấp xã, tổ chức lại thành Đội vũ trang xây dựng làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào và tiến hành kháng chiến ở cơ sở, do chi bộ xã lãnh đạo. Tổng số cán bộ, nhân viên các ngành chuyên môn và bộ máy các đoàn thể so với trước còn khoảng một phần năm. Tỉnh ủy lại chủ trương “kế hoạch tam tam chế”. Tất cả các đơn vị, cơ quan trong tỉnh thực hiện một phần ba số người đi chiến đấu, hoặc phục vụ chiến đấu, một phần ba đi sản xuất và một phần ba đi vác gạo và làm những công trình công cộng. Như vậy, có phần nào rút hẹp các mặt hoạt động chiến đấu, xây dựng cơ sở, nhưng vấn đề cấp thiết nhất lúc này là lo cái ăn trước mắt và tập trung lực lượng vào sản xuất làm ra của cải vật chất, trước hết là lương thực, thực phẩm. Ban quân sự và Ban cung cấp được phân công trực tiếp thực hiện chế độ này.
Cơ quan phát rừng làm rẫy và làm lại một số ruộng hoang hóa ở Bến Ghe. Trở ngại lớn lúc đầu là giống má, nông cụ, nông súc thiếu thốn. Một trở ngại nữa là nhân lực, số đồng bào ở căn cứ quá ít8 lại thường bị đau ốm. Cán bộ cơ quan đa số chưa quen lao động, lại mới di chuyển, ăn uống thiếu thốn, bệnh hoạn nhiều. Trong khi đó, sản xuất tự túc là vấn đề quan trọng sống còn, Tỉnh ủy đặt thành chủ trương và tích cực chỉ đạo thực hiện. Cán bộ chủ trì mỗi tháng phải lao động sản xuất 5 ngày, nhân viên mỗi tháng 8 ngày. Khi cần, vào thời vụ mở những đợt sản xuất liên tục 5 đến 10 ngày thì huy động tất cả mọi người cùng tham gia.
Vượt qua được những khó khăn trong năm 1951- Năm đầu tiên đến căn cứ, bước sang năm 1952 đà sản xuất lên khá. So với năm trước, diện tích trồng trọt tăng gấp 3 lần (trước 150 mẫu, nay 500 mẫu). Số hoa màu thu được từ tháng 3 đến tháng 12-1952 là 150 tấn lúa trong đó có 30 tấn màu quy ra thóc (lúc bây giờ quy định: 1 ký gạo đổi 5 ký mì hoặc 1,5 ký bắp, 4 ký lang).
Sản xuất ở căn cứ đã giải quyết được một phần cung cấp cho bộ máy trong tỉnh, giảm bớt sự chi viện của Liên khu, tiết kiệm một phần nhân lực của các tỉnh tự do. Đặc biệt là trong năm 1952, tình hình kinh tế của các tỉnh vùng tự do Liên Khu 5 rất khó khăn, ở một số vùng đã xảy ra nạn đói. Trong hoàn cảnh ấy, một tỉnh vốn dựa vào sự tiếp tế của Liên khu, tiến lên đẩy mạnh sản xuất, giải quyết một phần tiếp tế tại chỗ, cải thiện một bước đời sống vật chất của cơ quan, bộ đội lại bắt đầu có sự trao đổi mua bán giữa căn cứ và vùng địch hậu là điều rất có ý nghĩa.
Trên một căn cứ rộng, có bố phòng chặt chẽ bằng các tuyến chông, mìn, cạm bẫy, nguồn lương thực, thực phẩm đã có cách giải quyết tương đối ổn định nên cuộc sống có phần thoải mái, các mặt công tác ở căn cứ phát triển. Các đơn vị bộ đội của tỉnh vào Bắc Khánh có nơi đứng chân ổn định, tổ chức huấn luyện quân đội, cán bộ, thực hiện sự kết hợp giữa tác chiến và xây dựng, giữa chiến đấu và sản xuất, có điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc thương, bệnh binh. Sức chiến đấu của bộ đội được phục hồi và tăng lên rõ rệt. Ở đây có trường Đảng của tỉnh, có máy in chữ typô (chữ chì kiểu Minerve), có lò rèn nông cụ, có xưởng quân giới sửa vũ khí, có bệnh xá, có trại giam tù binh... Đêm đêm có những buổi đốt lửa trại, liên hoan văn nghệ.
Tất cả những thắng lợi này có ý nghĩa rất lớn đối với nhân dân vùng địch hậu. Số quần chúng bị địch bắt đi càn vào căn cứ, số ngụy quân đi lùng thấy rõ thực tế những rẫy bắp rất tốt, sắn mì mọc thành rừng. Họ trở thành những cái loa tuyên truyền rất có hiệu lực. Qua đó, nhân dân vùng địch hậu càng thêm tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Căn cứ Đá Bàn được hình thành là chỗ đứng chân, chỗ dựa chung cho cả tỉnh, có ảnh hưởng trực tiếp đối với phong trào Bắc Khánh. Tuy nhiên đối với Nam Khánh, căn cứ Đá Bàn có phần xa xôi, cách trở. Ban Thường vụ Liên Khu ủy đã tỏ ra lo lắng. Điều ấy được phản ánh trong bản Chỉ thị của Thường vụ Liên Khu ủy tới Khánh Hòa ngày 16-6-1951:
“Tỉnh ủy đang ở Đá Bàn, gặp nhiều trở ngại, tiếp tế khó khăn, địch dễ lùng quét, xa phong trào, khí hậu xấu. Cần nghiên cứu chuyển hoạt động vũ trang vào Nam Khánh để đẩy phong trào, đồng thời tạo căn cứ hoạt động ? Hoặc phân tán Tỉnh ủy, một bộ phận phụ trách Nam Khánh, một bộ phận phụ trách Bắc Khánh, còn bộ phận phụ trách chỉ đạo chung cần tổ chức gọn nhẹ, có thể lưu động được để nắm tình hình và điều hòa”.
Lúc bấy giờ Nam Khánh chưa xây dựng được căn cứ của tỉnh, mà chỉ có căn cứ của từng huyện. Căn cứ Cù Hin của Cam Ranh, Đồng Bò của Vĩnh Xương. Cuối năm 1950, do đường biển bị phong tỏa, các cơ quan của thị xã Nha Trang ở Hòn Tre phải chuyển về Đồng Bò Hạ. Trước đó (5-1950) do yêu cầu mở rộng bàn đạp cho nội thị, 3 xã của huyện Vĩnh Xương được sát nhập vào thị xã Nha Trang để tổ chức lại thành 3 khu ngoại ô. Huyện Vĩnh Xương còn một xã là Khánh Xương được giao về cho Diên Khánh rồi cùng với huyện Khánh Vĩnh ngày nay lập thành một huyện lấy tên là Vĩnh Khánh. Từ đó căn cứ Đồng Bò thuộc Nha Trang được xây dựng ngày càng vững chắc, là một trong những căn cứ lớn của tỉnh, có vị trí lợi hại. Căn cứ của huyện Diên Khánh là vùng Đá Đen mở rộng lên phía tây, lấy tên là căn cứ 175A. Đồng bào miền núi các vùng Dinh Ông, Suối Ốc, Soi Mít... đã tích cực góp phần xây dựng, bảo vệ căn cứ và giúp huyện cứu nạn đói năm 1951. Nhiều người đem lúa đến giúp một nửa, bán rẻ một nửa cho huyện.
Căn cứ 175A nằm sát nách địch, tính dường chim bay chỉ cách địch 3 kilômét về phía bắc và cách con sông Cái về phía nam. Sự tồn tại của căn cứ là sự uy hiếp trực tiếp đối với vùng địch kiểm soát. Do đó đã nhiều lần chúng huy động lực lượng lớn lên càn quét đánh phá. Khi căn cứ 175A mở rộng lực lượng sản xuất, cũng là lúc ta phát triển mạnh lực lượng dân quân, du kích. Những trại viên sản xuất được rèn luyện thành những tay súng giỏi, vận dụng chiến thuật du kích, lợi dụng địa thế núi rừng hiểm trở và hầm chông, cạm bẫy để tiêu diệt địch. Nhờ đó mà qua nhiều đợt càn quét đánh phá của địch, căn cứ vẫn đứng vững.
Năm 1952, căn cứ 175A tiếp tục mở rộng lên vùng Râm, Bến Khế (tức khu C, khu D). Các cơ quan quân, dân, chính, đảng huyện, cơ quan sản xuất huyện và toàn bộ các trại sản xuất của các xã phía bắc sông Cái đều đóng ở đây. Tiếp đó huyện chủ trương khai phá vùng Cây Sung- Láng Nhớt mở khu sản xuất cho các xã phía nam sông Cái hình thành khu căn cứ 175B. Cả hai khu căn cứ 175A và 175B đã có số trại viên đông đảo gồm trên 1.500 người, phần lớn là số cán bộ xã chạy lánh các cuộc bố ráp của địch, đến đây để sản xuất, đồng thời được học tập, nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức khỏe để trở về bám dân, xây dựng cơ sở.
Cả hai khu 175A và 175B đã thống nhất lại thành khu căn cứ Khánh Lâm, có một ban phụ trách chung và xây dựng được hai trung đội dân quân du kích có kinh nghiệm sản xuất và có năng lực chiến đấu cao. Họ đã tự tạo được nhiều súng đạn, xây dựng được nhiều tuyến hầm chông, cạm bẫy làm cho bọn lính địch khi đi càn phải kiêng nể, sợ hãi.
Số lương thực thu được chẳng những đủ nuôi lực lượng sản xuất, số cán bộ nhân viên các cơ quan huyện, xã, các đoàn cán bộ, bộ đội qua lại công tác, cứu giúp đồng bào vùng miền núi ở một số nơi bị đói, mà còn dành được phần để dự trữ.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ HAI
Năm 1951 là năm các đại hội Đảng, cũng là năm toàn Đảng có chuyển hướng rõ trong tư tưởng chỉ đạo để đưa cuộc kháng chiến đến toàn thắng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp vào tháng 2-1951 tại căn cứ địa Việt Bắc (Tuyên Quang).
Đại hội đại biểu Liên Khu 5 lần thứ hai, họp vào tháng 8-1951 tại một địa điểm thuộc vùng tự do Liên Khu 5.
Dưới ánh sáng các Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội Liên khu, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh họp vào tháng 12-1951 tại căn cứ Đá Bàn, 130 đại biểu đã về dự đại hội. Đồng chí Nguyễn Côn, ủy viên Ban Thường vụ Liên Khu ủy, tham dự và chỉ đạo đại hội. Đại hội nghe báo cáo của đồng chí Lê Thanh Liêm, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, là thành viên của đoàn đại biểu Liên khu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc; nghe Báo cáo chính trị của Tỉnh ủy với nhan đề: “Kiểm thảo sự lãnh đạo chiến tranh của tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa” do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, bí thư Tỉnh ủy trình bày.
Đại hội khẳng định tác dụng thiết thực của căn cứ Đá Bàn đối với phong trào kháng chiến của tỉnh. Công tác xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng đã có những tiến bộ nhất định. Sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và các huyện, thị ủy bắt đầu có chuyển biến trong tư tưởng, tác phong và lề lối làm việc, tỏ ra sát việc, sát phong trào hơn trước. Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh. Nhân dân trong vùng địch kiểm soát vẫn hướng về cách mạng, tin tưởng ở Bác Hồ, ở Đảng.
Đại hội cũng chỉ ra mặt yếu của phong trào là phương châm “kiên trì vận động cách mạng” chưa được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng bộ. Việc truyền đạt nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công còn vội vàng, lúc đầu đã gây được không khí lạc quan, chờ đợi trong cán bộ và nhân dân. Nhưng khi nghe nói “phải kiên trì vận động cách mạng”, “kháng chiến trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh” thì có một số tỏ ra bi quan lo lắng.
Đại hội đã đi sâu nghiên cứu thực tế, rút kinh nghiệm trên các vấn đề xây dựng cơ sở quần chúng, xây dựng lực lượng bán vũ trang và vũ trang, xây dựng Đảng, lãnh đạo đấu tranh.
Việc xây dựng cơ sở gặp rất nhiều khó khăn. Cán bộ thôn xã hầu hết thoát ly lên chiến khu. Nhân dân thì bị tập trung ngủ đồn, cán bộ thỉnh thoảng mới về làng một lần và về làng chỉ gặp một số ông già, bà cả. Những nơi ở sâu trong lòng địch, cán bộ ta ít được gặp dân, có nơi về được, nhưng vì không có hầm bảo đảm nên bị thương vong, tổn thất.
Đối với một số đối tượng quần chúng, như đồng bào tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số, công thương gia... cần hết sức vận dụng các chính sách của Đảng để mở rộng mặt trận chống đế quốc thì có nơi ta lại phạm sai lầm, nên họ càng xa lánh, ít hiểu công việc kháng chiến.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, suốt một thời gian dài, lãnh đạo nặng về xây dựng bộ đội tập trung, thiếu quan tâm đầy đủ lực lượng dân quân, du kích, tách rời cơ sở quần chúng với cơ sở dân quân, du kích và lực lượng vũ trang tập trung. Năm 1950, các bộ phận du kích tập trung xã được rút lên để bổ sung kiện toàn các lực lượng vũ trang địa phương và đưa lên bổ sung một phần cho chủ lực. Việc làm ấy bình thường và hợp quy luật đối với việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ta, nhưng trong hoàn cảnh rất khó khăn của năm 1950, việc rút hàng loạt và thiếu cân nhắc kỹ ấy đã làm cho dưới hổng chân, từ đó lực lượng du kích xã trở nên yếu và hao mòn, tan rã dần qua các lần bị địch đánh úp.
Khuyết điểm về sự chỉ đạo của cấp ủy đảng đối với lực lượng vũ trang được sửa chữa, rõ nét là từ giữa năm 1951. Các lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị chủ lực biệt phái hoạt động trên địa bàn tỉnh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Các huyện ủy cũng trực tiếp nắm và chỉ đạo các lực lượng vũ trang hoạt động trên địa bàn huyện. Mối quan hệ giữa lực lượng chính trị, lực lượng bán vũ trang và vũ trang, giữa lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội chủ lực từng bước được điều chỉnh đúng đắn, hợp quy luật phát triển của chiến tranh nhân dân, đồng thời phù hợp với thực tế của chiến trường vùng tạm chiếm.
Về vấn đề xây dựng Đảng, Đại hội nêu lên một thực tế là từ năm 1949 sau Hội nghị đại biểu Liên khu lần thứ nhất, nhận thức về xây dựng “một đảng quần chúng đông đảo và mạnh mẽ” được phổ biến, kế hoạch phát triển Đảng được đề ra. Nhưng vì quan niệm phát triển Đảng không đúng, từ chỗ quá hẹp hòi, khắt khe, đi đến phát triển rộng rãi, bừa bãi. Bên cạnh số rất đông đảng viên trung thành, hăng hái, đã đưa vào Đảng một số người không đủ tiêu chuẩn, kém ý thức Đảng, ý thức giai cấp. Hậu quả là lúc phong trào khó khăn vào những năm 1951-1952 không ít đảng viên tỏ ra tiêu cực, cầu an, bỏ công tác và bỏ sinh hoạt đảng, không thi hành các nghị quyết của Đảng.
Đầu năm 1951, sau khi Trung ương có chỉ thị “về việc tạm ngưng kết nạp đảng viên mới”9, chúng ta cũng quan niệm lệch, nên đình chỉ luôn cả việc tuyên truyền gây ảnh hưởng cho Đảng, không chú ý những trường hợp đặc biệt được phép kết nạp như những chiến sĩ công, nông trong phong trào thi đua đã tỏ ra đặc biệt hăng hái trong công tác, những chiến sĩ vệ quốc quân, bộ đội địa phương, dân quân du kích xung phong gan dạ, đã lập được nhiều chiến công đặc biệt ngoài mặt trận.
Về vấn đề cán bộ, Đại hội nhận định, phong trào kháng chiến trong tỉnh đã xây dựng một đội ngũ cán bộ được tôi luyện và trưởng thành trong chiến đấu. Nhưng trong những năm 1950-1951, phong trào xuống thấp, cán bộ nhất là cán bộ thôn, xã, bị tổn thất, hy sinh nhiều. Khuyết điểm của Tỉnh ủy là chưa có sự quan tâm đúng mức để có kế hoạch bảo vệ thiết thực, cụ thể và cũng chưa ý thức rõ ràng đối với việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ địa phương, chậm đào tạo và đề bạt cán bộ nữ.
Về lãnh đạo tranh đấu, nhất là những cuộc đấu tranh giành lúa, các cấp ủy đảng đặt thành nhiệm vụ lớn, dồn sức vào đây nhiều. Công của và xương máu của nhân dân tổn thất rất nhiều, nhưng kết quả thu được không cao.
Chủ trương giành lúa là để bảo vệ lợi ích cho dân, nhưng thực tế thì trái ngược. Khi lúa được đưa lên núi rồi, một phần chúng ta sử dụng, một phần không được bảo vệ, nên bị địch cướp bóc, đốt phá, phần do thú rừng ăn phá.
Về sau chủ trương giành lúa đã được sửa đổi với ý thức thực sự bảo vệ cho dân, vận động sức dân để họ tự bảo vệ quyền lợi cho mình.Chủ trương này được nhân dân hưởng ứng và thực hiện có kết quả mỹ mãn, như ở xã Khánh Hội (Diên Khánh) nhân dân cất giấu được trên một ngàn giạ lúa, không tốn chút xương máu nào, hơn hẳn mấy năm trước đổ sức ra nhiều mà kết quả rất ít.
Bằng việc đưa ra những vấn đề quan trọng, nêu rõ thực tế, vạch rõ sai lầm, Đại hội biểu thị rõ thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Đại hội đã bầu Ban chấp hành mới gồm 15 đồng chí: Nguyễn Xuân Hữu, Lê Thanh Liêm, Nguyễn Sinh, Hồ Ngọc Nhường, Lê Đoan, Đặng Vinh Hàm, Mai Xuân Cống, Trần Nguyên Tích, Lưu Văn Trọng, Tô Văn Ơn, Nguyễn Thúc Tịnh, Nguyễn Kim Toàn, Nguyễn Đức Trí, Tôn Thất Chí, Lê Hinh. Đồng chí Nguyễn Xuân Hữu bí thư, Lê Thanh Liêm phó bí thư, Hồ Ngọc Nhường, Nguyễn Sinh, Lê Đoan là ủy viên Ban Thường vụ.
Trong thời gian này, ta gặp nhiều khó khăn nhưng địch cũng khó khăn gấp bội. Trong lực lượng vũ trang thành phần ngụy binh đã trên 80% tinh thần sút kém, việc tổng động viên nhân tài, vật lực (bắt lính và cướp bóc) đã làm cho nhân dân ngày càng căm tức, oán ghét. Đầu tháng 3-1951, lại xảy ra vụ nổ tàu Adour thuộc loại tàu LST (Landing ship tank) trọng tải 8.000 tấn, làm nhiệm vụ chuyển quân và vũ khí phục vụ các cuộc hành quân, trên 600 tên địch chết, tàu bị chìm (nay còn xác trước cảng Chụt - Nha Trang).
Về phía ta, đầu năm 1951, Bộ Tư lệnh Liên Khu 5, đưa tiểu đoàn 365 quen thuộc địa bàn vào hoạt động ở Bắc Khánh. Tiểu đoàn đã đánh thắng hai trận. Một là trận Đồng Thân ở phía Tây huyện Ninh Hòa (xã Ninh Thượng ngày nay), diệt một đại đội địch đang lùa đồng bào đi gặt lúa đem về đồn. Hai là trận núi Beo ở tây-bắc Giã (Vạn Ninh) cũng là đánh bọn địch lùa đồng bào đi gặt lúa, diệt gọn một trung đội Commandos, bắt được đội Mẫu, là một tên gian ác khét tiếng. Nguyễn Mẫu, người thôn Phú Cang, xã Đồng Tiến, nguyên là trung đội trưởng du kích. Vì bất mãn, Mẫu đã về đầu hàng địch từ tháng 11-1948, biết nhiều cơ sở, kho tàng, biết nhiều cán bộ, biết cả đường đi nước bước của ta. Để tâng công với địch, Mẫu đã ra sức trổ tài gian ác giết hại đồng bào, làm hại cách mạng, nhân dân rất căm tức. Mẫu đã bị tuyên bố xử tử tại một cuộc mít tinh quần chúng.
Đơn vị 252 của Nha Trang, thực hiện tuần lễ giết giặc, tập kích đồn Cô Châu, diệt một tiểu đội cả Pháp lẫn ngụy. Địch phản ứng rải quân đánh phá các vùng tiếp giáp với chiến khu Đồng Bò, canh tuần gắt gao mặt biển, bắn chìm hai ghe liên lạc của ta chở một số cán bộ quân sự và cơ quan nông hội tỉnh từ Đầm Vân (Hòn Hèo) đến bến Sông Lô (Đồng Bò) trong chuyến dời cơ quan vào phía nam. Toàn bộ số cán bộ đi trên ghe bị địch bắt hoặc hy sinh trên biển. Đoàn thể nông hội bị tổn thất lớn. Tháng 1-1951, đồng chí Hồ Xưa, bí thư Ban chấp hành nông hội tỉnh bị địch bắn, hy sinh tại thôn Ninh Đức, trên đường vào Hòn Lớn. Trong số cán bộ nông hội hy sinh lần này có đồng chí Nguyễn Diện, bí thư và đồng chí Trương Mạnh Tiến, ủy viên Thường vụ Ban chấp hành nông hội tỉnh. Sau các sự kiện trên, bọn thực dân Pháp chủ trương phong tỏa gắt gao mặt biển xung quanh Nha Trang. Cuộc phong tỏa bờ biển bắt đầu từ tháng 3-1951 là cuộc phong tỏa lớn nhất từ trước tới nay. Toàn bộ ghe thuyền của ngư dân bị cấm ra khơi, uy hiếp trực tiếp đời sống của nhân dân làm biển, và gây ra nạn khan hiếm thực phẩm tại Nha Trang. Trước hoàn cảnh bức xúc ấy đã nổ ra cuộc đấu tranh đòi mở biển của nhân dân các thôn Trường Đông, Trường Tây xã Xuân Hải (nay là Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường). Chi bộ xã và thị ủy hướng dẫn kế hoạch đấu tranh. Hàng ngày, có hàng trăm người kéo lên thị xã, đến tỉnh đường ngụy quyền và cơ quan Pháp kêu nài, đòi mở biển. Ô tô, xe ngựa chở đồng bào đi đấu tranh không lấy tiền. Ngoài ra, còn các đoàn người ăn mặc rách rưới giả đi ăn xin tố cáo Pháp và ngụy quyền cấm biển với khẩu hiệu: “Biển giã đói khát, bà con cho ăn một bữa”. Đồng bào các dãy phố tiếp tế cơm nước và đồng tình ủng hộ, có cả nhân viên một số công sở và binh sĩ ngụy quyền tham gia đấu tranh.
Sau hai tháng, trước áp lực mạnh mẽ của quần chúng, bọn địch buộc phải bỏ lệnh cấm biển. Đồng bào được ra khơi làm ăn cả ngày lẫn đêm, đời sống được cải thiện... Vào thời điểm bị địch o ép dữ dội, cuộc đấu tranh đã nổ ra ngay tại trung tâm đầu não của địch, thu được thắng lợi rực rỡ, củng cố và tăng cường tình đoàn kết kháng chiến của nhân dân.
NHỮNG CHUYỂN BIẾN Ở MIỀN NÚI
Tên tay sai rất đắc lực cho thực dân Pháp trong việc lôi kéo đồng bào thượng du lập goum10 tại miền núi tỉnh Khánh Hòa là Mohamed Ali người A Rập Xêút. Ali vừa là tư sản đò đưa11 vừa là tay sai của Pháp rất lợi hại, được Pháp trao cho một uy quyền rộng rãi, tạo uy tín bằng cách cho Ali ban phát muối, vải, thuốc chữa bệnh, công cụ sản xuất, cứu trợ đồng bào dân tộc khi có nạn đói, nạn dịch, can thiệp với đại diện hành chánh, (déléguéadministralif) xin tha cho những người mà bộ máy chiến tranh của Pháp bắt giam, thậm chí tha cho cả những người tham gia kháng chiến. Mối quan hệ giữa đồng bào dân tộc với chính quyền thực dân Pháp đều thông qua Ali.
Trong mấy năm đầu kháng chiến, cách vận động đồng bào dân tộc của ta là nặng về chính quyền, nhẹ về tổ chức các đoàn thể, giáo dục nhân dân, đặt ra các tổ chức rập khuôn như ở Trung Châu. Cán bộ chưa có ý thức dân tộc bình đẳng, chưa có quan điểm quần chúng đúng đắn, tác phong quan liêu, mệnh lệnh, không tôn trọng phong tục, tập quán, không rõ quan hệ xã hội của đồng bào dân tộc, vai trò của đầu lớn. Những việc đó dân không bằng lòng, thắc mắc mà vẫn để trong lòng, ta không hay biết để giải thích thanh minh, sửa chữa. Địch lợi dụng kích động các khuyết điểm sai lầm ấy, các mâu thuẫn ấy, bí mật phát triển goum. Do đó xảy ra vụ một bộ phận đồng bào dân tộc theo Pháp chống lại ta hồi tháng 10 năm 1949. Đến nửa năm 1950, mới bắt đầu dịu lại. Những vụ việc như vậy đã gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của, cản trở công việc gây dựng cơ sở của ta. Nhưng chính những điều đó cũng đã chỉ cho ta nhiều bài học qúy giá về vận động đồng bào các dân tộc miền núi12.
Giúp cho các cấp ủy đảng trong công việc này có Ban thượng du vận tỉnh và Phòng thượng du các huyện Ninh Hòa, Vĩnh Khánh, Ba Ngòi (Cam Ranh). Năm 1951 huyện Cam Ranh được tách làm hai. Vùng đồng bằng và cảng hình thành một đơn vị ngang huyện là khu đặc biệt Cam Ranh, có phái viên của Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Khánh Hòa do đồng chí Nguyễn Thúc Tịnh phụ trách. Vùng đồng bào dân tộc miền núi thành lập một huyện mới lấy tên là huyện Khánh Sơn. Đến giữa năm 1952, công việc vận động đồng bào các dân tộc miền núi được thống nhất mạnh mẽ. Trên tỉnh có Ban cán sự do một tỉnh ủy viên làm trưởng ban. Các phòng thượng du huyện lần lượt tách khỏi huyện ủy để trực thuộc Ban cán sự tỉnh13. Các địa phương ra sức sửa chữa khuyết điểm, lo công tác bố phòng, xây dựng cơ sở, đồng thời đẩy mạnh sản xuất tự túc, khắc phục tình trạng cán bộ sống bám vào dân khi dân còn đói. Ở thời kỳ này, ta phát động 3 phong trào: sản xuất và vần công để nâng cao đời sống; vệ sinh phòng bệnh, ăn ở sạch sẽ và học chữ; chống chụp hình lãnh cạt. Cán bộ đi sát dân, thực hiện quần chúng hóa trong sinh hoạt, học tiếng dân tộc, tôn trọng phong tục tập quán, phổ biến kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, giống má, cho nên được đồng bào tin yêu, mến phục. Phương châm, phương thức công tác vùng đồng bào dân tộc vận dụng có kết quả, vừa tập họp được quần chúng cơ bản, dần dần thanh toán các ổ goum. Công tác trong vùng đồng bào dân tộc có một nhiệm vụ rất quan trọng là bảo đảm con đường liên lạc Bắc-Nam, Nam-Bắc. Khi một bộ phận đồng bào thượng du chống ta, giết cán bộ, đường liên lạc Bắc-Nam bị đứt. Người và tài liệu ở Bắc vào Nam ứ đọng ở phòng thượng du Vĩnh Khánh. Tài liệu và cán bộ trong Nam ra ứ đọng ở Nam Khánh Sơn. Thực hiện Chỉ thị của Liên Khu 5, Tỉnh ủy đã giao nhiệm vụ cho các phòng thượng du và cử các cán bộ tin cậy, bất cứ giá nào cũng phải nối cho được con đường liên lạc huyết mạch ấy. Hơn một tháng tìm cách vận động, ta đã thành công trong việc tổ chức con đường liên lạc đến Khánh Sơn, rồi đến chiến khu của Tỉnh ủy Ninh Thuận. Hành lang Bắc-Nam của Trung ương qua địa phận Khánh Hòa được hoàn toàn khôi phục và bảo đảm vững chắc trong lòng đồng bào các dân tộc miền núi.
Kinh nghiệm vụ Sơn Hà14 đến kinh nghiệm bản thân trong tỉnh đã góp phần nâng cao trình độ cán bộ hoạt động ở các vùng đồng bào dân tộc. Quan trọng nhất là nội dung chính trị, quân sự chỉ sử dụng trong trường hợp thật cần thiết. Tuy vậy, đó đây vẫn còn xảy ra những vụ việc đáng tiếc. Vào giữa năm 1951, huyện đội Khánh Sơn và bộ đội 300 chủ trương truy quét vùng Ma Trai, Dốc Quýt, Sông Cạn vì cho rằng các vùng này theo địch. Trong lúc địch hù dọa, dồn đồng bào tập trung về vùng thấp, heo, gà, trâu, bò chưa kịp chuyển theo thì trận truy quét ấy đốt sạch, phá sạch. Hành động quân phiệt ấy đã gây tổn thất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách dân tộc của Đảng, là thời cơ cho Ali ra sức lợi dụng để thực hiện âm mưu chia rẽ, lôi kéo đồng bào dân tộc. Sai lầm này được Tỉnh ủy phát hiện, nghiêm khắc kiểm điểm, rút ra những bài học cần thiết và kiên quyết sửa chữa. Nhưng mãi đến cuối năm 1952 đầu năm 1953, quần chúng mới thật thông cảm với ta và được giúp đỡ đấu tranh, bung về làng cũ làm ăn.
Vào tháng 10-1952, việc vận động giải tán ổ goum của Tổng Malee ở vùng Tô Hợp (Khánh Sơn) là một thành công về vận động chính trị do đồng chí Hà Huy An (Việt Thắng) bí thư huyện ủy trực tiếp chỉ đạo. Tổng Malee ra điều kiện là phải cắt máu ăn thề thì ông ta mới tin và trở về với cách mạng. Cắt máu ăn thề với tên tổng đứng đầu một goum mạnh là việc không dễ dàng. Nhưng với lòng tin tưởng mạnh mẽ vào nhân dân, đồng chí Việt Thắng thông qua Lý Điềm, Lý Khui liên hệ với tổng Malee và tổ chức “tom” rượu tại nhà Lý Khui, có cả một trung đội của tổng Malee kéo đến dự. Lúc đầu anh em lo lắng, sợ bị chúng tiêu diệt. Nhưng ta tỏ thái độ rõ ràng, chân thật, cuộc cắt máu ăn thề diễn ra trót lọt, gây lòng tin cậy lẫn nhau. Sau khi đã tranh thủ được tổng Malee, ta tiếp tục liên hệ giải quyết các ổ goum khác. Ta không thu súng, và nói là họ có thể giữ để dùng hoặc đem trả lại cho địch, sống hợp pháp. Từ đó phong trào bắt đầu lên.
Ở phía Vĩnh Khánh (nay là huyện Khánh Vĩnh), goum của Mathia ở vùng Du Oai bị giải thể. Goum của tổng Mađai ở vùng Sông Giang tan rã. Mađai và cháu của nó là Cui chạy về đồn Cẩm Sơn. Goum của xã Đỏ cũng không còn. Xã Đỏ chạy lên vùng Tà Mậu, sau bị dân giết chết. Goum của tổng Đăng, quản Sóc ở vùng Pacẳng- Đuning tuy còn, nhưng hoạt động hạn chế. Ở vùng này, bộ đội 256, một đơn vị tây tiến15 của Liên khu hoạt động có hiệu quả.
Các sự kiện trên chứng minh vùng đồng bào dân tộc miền tây Khánh Hòa từ đường 21 cho đến vùng Tà Lú, Ma Ti của huyện Bác Ái (tỉnh Ninh Thuận) đã từng bước được xây dựng trở lại. Cán bộ hoạt động ở vùng này chịu đựng nhiều gian khổ hy sinh, ngày càng nắm vững và thực hiện đúng chính sách dân tộc của Đảng. Các đồng chí Trần Văn Quế (tức Mười Kinh), Tô Văn Ơn, Đoàn Việt Sửu, Việt Thắng, Lê Tụng, Hồng Vũ, Ba Đẩu, Võ Duy Đồng... đã có một thời gian lâu hoạt động ở vùng đồng bào dân tộc. Cán bộ đi sát dân, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của dân, quan tâm giải quyết các vấn đề đời sống nhân dân, trong đó vấn đề rất quan trọng là đã được nhận thức đúng và giải quyết có kết quả tốt. Đó là vấn đề xây dựng kinh tế miền núi, vừa cải thiện được đời sống nhân dân, vừa giải quyết được đời sống cán bộ. Cán bộ huyện, xã đều sản xuất tự túc, không phải xin lương thực của dân. Các đồng chí San, Phước, Lý Điềm... (ở Khánh Sơn), Bảy Xà A, Bảy Ano, Mười Hào, Cai Lô... (ở Vĩnh Khánh) là những cán bộ người dân tộc rất trung thành, tận tụy với sự nghiệp cách mạng, được dân kính trọng, mến yêu. Sự có mặt của cán bộ Cụ Hồ ở với dân lúc này là đốm lửa sáng trong lòng đồng bào dân tộc.
PHONG TRÀO ĐỒNG BẰNG
Báo cáo tổng kết năm 1951 của Liên khu ủy nhận định về tình hình các vùng tạm bị chiếm đã ghi rõ: “Phong trào sút kém do sai lầm của sự chỉ đạo từ trước, đến gần đây ta chuyển hướng phương châm mới, nhưng cần phải có thời gian mới thay đổi được tình hình”. Thực tế ở Khánh Hòa, miền núi gặp nhiều khó khăn, đồng bằng cũng như thế, nhưng rồi dần dần cũng chuyển biến.
Theo báo cáo của Tỉnh ủy Khánh Hòa, năm 1952 so với năm 1951 cơ sở ở Nha Trang, Cam Ranh, miền núi đều tiến bộ khá. Cam Ranh là nơi phong trào rất khó khăn, ở các nơi quan trọng như Bình Ba, Đá Bạc cơ sở bị đứt liên lạc. Nay Đá Bạc đã có 92 hội viên, Bình Ba 10 hội viên. Điều quan trọng là trong tình hình vô cùng cam go, các cán bộ đảng ở đây vẫn bám trụ, tìm mọi cách gầy dựng được một số cơ sở nòng cốt. Những cơ sở này đã giúp đỡ một số công việc và giữ liên lạc thường xuyên với cán bộ, được giáo dục, bồi dưỡng một số kiến thức về chính trị và phương pháp công tác, không bao lâu trở thành những cán bộ hoạt động bên trong có hiệu quả.
Ở Nha Trang, Thị ủy lo giáo dục, củng cố nên số lượng cơ sở không tăng mà tiến bộ khá về chất. Bắc Khánh đã có đà để xây dựng lại phong trào.
Trong năm 1952, theo sự chỉ đạo chung của Liên khu ủy, Tỉnh ủy và các huyện ủy tập trung sức lo chỉnh đốn tổ chức, sắp xếp cán bộ và giáo dục bồi dưỡng cán bộ về công tác vùng bị tạm chiếm và vùng du kích theo phương châm của Trung ương Đảng. Tỉnh đã tổ chức 9 khóa chỉnh huấn cho 800 cán bộ (trừ bộ đội) và mở lớp về phương châm công tác vùng địch cho 350 cán bộ (chưa kể số được dự lớp do Liên Khu ủy 5 giúp đỡ, tổ chức ở vùng tự do). Nội dung dân vận, ngụy vận, chiến tranh du kích, từng bước được quán triệt trong các cấp ủy đảng, các ngành, nhất là trong lực lượng vũ trang. Cán bộ đã tiến bộ về tác phong, đi sát dân, quan tâm đến sinh hoạt và đời sống của nhân dân, giúp dân làm nhà, giúp giống má. Ở miền núi thì bày cho nhân dân cách làm trái mùa, tích cực đẩy mạnh sản xuất nên ít bị đói và nhất là củng cố được đoàn kết nội bộ. Cuộc sống ở căn cứ của huyện, xã, nhất là của xã đã tương đối khá, tình trạng đói kém giảm bớt nhiều nhờ đẩy mạnh sản xuất tự túc. Trong năm 1952, các xã Hòa Nhân, Hòa Trí, Hòa Dũng đã làm được 28 mẫu ruộng, 32 mẫu đất, 62 mẫu rẫy. Riêng xã Ninh Phước (Ninh Hòa) đã khai phá được 10 mẫu ruộng, 6 mẫu rẫy, 9 mẫu đất.
Cũng trong năm 1952, một phần do thiên tai và phần lớn do chính sách vơ vét của địch ngày càng tàn ác và trắng trợn, nên nhân dân vùng địch đói khổ, lòng căm tức địch ngày càng sâu sắc.
Nghị quyết của Liên Khu ủy ra ngày 19-5-1953 đánh giá về sự bóc lột của địch trong năm 1952 và mấy tháng đầu năm 1953:
“Sự bóc lột xâu thuế tăng lên gấp bội. Đôi nơi địch đã hoàn thành thu đảm phụ quốc phòng 1952 và thu đảm phụ 1953. Có nhiều món thuế tăng lên gấp 10 lần như thuế điền thổ (từ 40 đồng lên 400 đồng một mẫu), có thứ tăng từ 200 đến 500% như thuế đầm, thuế chợ... một người bần nông ở Ninh Thuận phỏng tính mỗi năm phải nộp cho địch 1.082 đồng Đông Dương. Nông dân trong vùng tôn giáo còn phải đóng thêm 630 đồng vào các lễ cúng.
“Tình trạng bóc lột nặng nề đó đi đôi với nạn mất mùa, dịch tễ súc vật đã gây ra nạn đói ở vùng tạm bị chiếm Khánh, Ninh, Bình và Tây Nguyên”.
Trong hoàn cảnh ấy, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày ở địa phương nào cũng có. Có nơi, nhân dân vì quá căm tức chẳng kể gì tù tội, đánh đập, xé vé số trước mặt, có trường hợp xô xát cả với bọn lính ngụy, nguyền rủa công khai bọn quận, xếp đồn. Nhân dân ngày càng thấy rõ lợi ích của sự đoàn kết chống địch qua các cuộc đấu tranh chống cấm biển ở Nha Trang, đòi hồi cư ở Lương Sơn. Về chống bắt lính, có những hình thức quyết liệt như chặt ngón tay, nằm cản xe chở lính, chống lại chỉ huy, chửi quận trưởng. Các hình thức đấu tranh hợp pháp, bất hợp pháp, kết hợp hợp pháp với bất hợp pháp xảy ra một cách phổ biến. Có những cuộc đấu tranh cán bộ cơ sở ta lãnh đạo kịp, nhưng có rất nhiều cuộc đấu tranh do nhân dân tự động nổi dậy. Do tình hình có biến chuyển, chiến thắng ở các địa phương và chiến thắng ở khắp nơi đã ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân, làm cho nhân dân càng phấn khởi tin tưởng vào kháng chiến thắng lợi, và đấu tranh chống địch mạnh hơn.
Tháng 4 và tháng 7-1952, địch tiến công căn cứ Hòn Hèo, tháng 5 và tháng 8-1952 tiến công căn cứ Vĩnh Khánh, và trong các tháng 4, tháng 9 và tháng 11-1952 tiến công căn cứ Đá Bàn, đánh vào cơ quan đầu não của tỉnh. Trong các cuộc tiến công này, chúng sử dụng từ đại đội đến tiểu đoàn gồm phần lớn là ngụy quân gom góp ở các đồn. Những cuộc càn lớn còn có quân từ Ninh Thuận hay Đắc Lắc phối hợp, có cả số quân về nghỉ dưỡng tại địa phương. Ta chống càn rất khó khăn vì từ đầu năm đến tháng 8-1952, các đơn vị vũ trang của ta ra vùng tự do Liên Khu 5 để chỉnh huấn và chấn chỉnh tổ chức. Ở lại căn cứ chỉ còn một số bộ đội và du kích, nhưng nhờ đã có sự tiến bộ đáng kể về cách bố phòng bằng hầm chông, cạm bẫy, kỹ thuật gài bom, mìn kết hợp với lối đánh du kích linh hoạt, ta đã giết và làm bị thương gần 1.000 tên địch.
Mặc dù ta còn gặp nhiều khó khăn nhưng phong trào phát triển khá rõ, sự chuyển hướng đúng đắn đã đem lại những hiệu quả đáng khích lệ cho quân và dân Khánh Hòa, động viên cán bộ và nhân dân trong tỉnh tiến lên đánh bại chính sách bình định của địch.
_____________
1. Cán bộ binh vận đắc lực của Nam Khánh là đồng chí Nguyễn Hàng (biệt danh Lu-y) đã bị giết trong một trận lùng của địch.
2. Trích "Bản nhận xét bổ cứu tình hình Khánh Hòa của Ban Thường vụ Liên Khu ủy tháng 5-1950".
3. Trong Nghị quyết BCH Trung ương (khóa 2) tại kỳ họp thứ 3 từ ngày 22 đến ngày 28-4-1952, Trung ương Đảng có tự phê bình là đặt vấn đề “một cách giản đơn và vội vàng, có ảnh hưởng đến công tác các ngành và các cấp bên dưới. Khẩu hiệu chuyển mạnh sang tổng phản công đề ra quá sớm”.
4. Quận trưởng Ninh Hòa đã thu được 90.000 đồng của dân góp mua đồn.
5. Tên một đồng chí tham gia phong trào năm 1930 và đã bị hy sinh trong những năm đầu đánh Pháp.
6. Số lượng đội viên:
Hội viên: Công đoàn: Nông hội: Phụ nữ: Thanh niên
Năm 1949: 3.297 5.923 14.772 4.430
Năm 1950: 2.105 4.035 5.922.
7. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, vùng tự do Nam Trung bộ có trên 2 triệu dân.
8. Chỉ có 148 người, nên Đá Bàn còn có tên căn cứ 148.
9. Chỉ thị của BCH Trung ương Đảng ra ngày 14-9-1950.
10. Goum: ổ võ trang
11. Thương lái: người lái buôn vùng dân tộc
12. Báo cáo tổng kết thành tích 2 năm từ đầu năm 1949 đến cuối năm 1950 của Ban thượng du vận Khánh Hòa.
“Trước vụ tháng 10 năm 1949:
Vĩnh Khánh: Chính quyền tổ chức được 13 xã, 3 thôn. Dân số nắm được (trừ trẻ em) 4.308- Dân vận tổ chức được 1.885 hội viên.
Cam Ranh: Chính quyền tổ chức được 5 xã, 3 thôn. Dân số 6.000 người. Dân vận, đến cuối tháng 12-1949 tổ chức được 134 hội viên.
Bắc Khánh: Chính quyền tổ chức được 2 xã và 5 buôn Đê. Dân số 925 người. Dân vận tổ chức được 34 hội viên.
Sau vụ tháng 10-1949. Sau vụ một bộ phận quần chúng chống ta tháng 10-1949, các hội quần chúng cũng như chính quyền tan rã cả. Cán bộ thiếu (bị chết). Từ sau đó đến cuối tháng 12-1950 tổ chức được:
Vĩnh Khánh: Dân chúng nắm được (nam phụ lão ấu): 1.734 người. Dân vận tổ chức được 838 hội viên.
Cam Ranh: Dân chúng nắm được 925 người. Dân vận tổ chức được 425 hội viên”
13. Tháng 4-1953 Phòng thượng du huyện Vĩnh Khánh có quyết định tách khỏi huyện. Trưởng ban cán sự tỉnh là đồng chí Tô Văn Ơn, tỉnh ủy viên.Vụ đồng bào thượng du huyện Sơn Hà tỉnh Quảng Ngãi chống lại lực lượng kháng chiến vào tháng 1-1950
14. Bộ đội 256 do đồng chí Ngọ, đội trưởng, Y Blok đội phó, đứng chân ở vùng miền núi Vĩnh Khánh để mở đường tiến lên vùng địch hậu Daklak.
Tags:
Tác giả:
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Xếp hạng: 0 - 0 phiếu bầu
- LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA (1930 - 2005) (31/01/2018)
- Phụ lục 2 (30/01/2018)
- Phụ lục (30/01/2018)
- Kết luận (30/01/2018)
- Chương XVIII - Đảng bộ Khánh Hòa lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2005) (30/01/2018)
- Chương XVII - Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (7/1989 - 1995) (30/01/2018)
- Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu (23/10/1945 - 12/1946) (30/01/2018)
- Chương V - Xây dựng chính quyền nhân dân và chuẩn bị kháng chiến (8/1945 - 10/1945) (30/01/2018)
- Chương IV - Cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám (1940 - 1945) (30/01/2018)
- Chương III - Thời kỳ đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh đòi tự do, cơm áo và hòa bình (1936 - 1939) (30/01/2018)