Trước những thực trạng suy thoái đạo đức đang diễn ra trong xã hội, đặc biệt là trong bộ phận công chức với các vụ tiêu cực, tham nhũng… làm ảnh hưởng đến cuộc sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân và cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, đạo đức công vụ đang trở thành vấn đề được xã hội rất quan tâm. Nâng cao giáo dục, trang bị đạo đức công vụ cho công chức hiện là vấn đề cấp thiết trong điều kiện Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tiêu chí đánh giá đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức không chỉ trong các mối quan hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ công, đó là trong giao dịch hành chính với tổ chức, công dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công chức phải đối mặt với nhiều vấn đề mà trước đây không có. Những vấn đề như: tiền lương, tiền thưởng hay phụ cấp, môi trường làm việc đều được đem ra so sánh với khu vực tư nhân và sự chênh lệch giữa hai khu vực này cũng làm cho tư duy về giá trị công vụ, công chức thay đổi. Hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân thể hiện sự thay đổi nhận thức giá trị công vụ.
Để hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến đạo đức công chức cần có nền tảng đạo đức công chức vững chắc. Nền tảng này cần phải được xây dựng dựa trên một hệ thống pháp luật để bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức được thi hành trong công vụ và tiêu chí để đánh giá công chức mang tính truyền thống như trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Tiêu chí đánh giá đạo đức công vụ: Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức, bao gồm hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ công chức với tổ chức, công dân, thể hiện ở lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung, ý thức việc cần phải làm và mong muốn được làm vì lợi ích chung đó. Đạo đức công vụ được đánh giá dựa trên hai tiêu chí sau:
Thứ nhất là đạo đức của bản thân người công chức. Chủ thể đạo đức công vụ là người công chức. Với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống và hoạt động.
Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức của nghề công chức.
Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được thể chế hóa trong nền công vụ. Nếu thiếu sự thể chế hóa thì những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức cũng chỉ là những lời giáo huấn, lý thuyết chung chung, không có sức sống trong thực tế. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc thì sức mạnh của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức mạnh của dư luận xã hội. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong đời sống xã hội của đội ngũ công chức.
Nâng cao đạo đức công vụ là quá trình tác động tích cực, có mục đích của các chủ thể tới đối tượng nhằm làm biến đổi đời sống đạo đức của đội ngũ công chức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách. Nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức có tầm quan trọng đặc biệt bởi:
Một là, đội ngũ công chức có vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng dân tộc. Trong đội ngũ công chức, một bộ phận không nhỏ là đảng viên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ công chức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong thực thi công vụ, người công chức phải chú tâm, công bằng, không thiên vị. Đội ngũ công chức còn là người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác để làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Hai là, một bộ phận công chức chưa nêu cao năng lực phẩm chất đạo đức cách mạng, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng. Đại bộ phận công chức có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí. Cần có cơ chế sớm loại đội ngũ cán bộ, công chức yếu kém ra khỏi bộ máy, để đội ngũ công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.
Ba là, bối cảnh quốc tế và khu vực thay đổi đòi hỏi càng phải nâng cao chất lượng đạo đức công vụ để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen hết sức phức tạp, nhiệm vụ chính trị mới nặng nề, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đào tạo lực lượng lao động có chất lượng cao; xây dựng được đội ngũ công chức ngang tầm phục vụ sự nghiệp cách mạng. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ.
Thực trạng vấn đề đạo đức công vụ của công chức, viên chức
Hiện Việt Nam có 2,8 triệu công chức. Nhìn chung, cán bộ công chức, viên chức ở Việt Nam có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng; thực hiện tốt lời dạy luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể; có lòng yêu nghề, tận tụy với công việc; tôn trọng đồng nghiệp, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam về cơ bản đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ. Công chức, viên chức tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.
Bên cạnh những ưu điểm đã được khẳng định, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Những sai phạm về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: đất đai, xây dựng, công an, kiểm lâm, y tế, giao thông... Trong đó, có nhiều vụ việc cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm, viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc" phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc làm vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của người khác; một số cán bộ dự án “rút ruột” công trình xây dựng; một số công chức, viên chức thanh tra giao thông, công an giao thông nhận tiền “mãi lộ” của lái xe và doanh nghiệp; một số công chức địa chính cố ý sai phạm để trục lợi cá nhân; có cán bộ làm công tác đền bù, giải phóng mặt bằng thiếu quản lý, tắc trách để cấp dưới gây ra những sai phạm khiến dư luận, người dân bức xúc; thậm chí công chức làm công tác văn thư, lưu trữ của cơ quan chuyên môn cũng hách dịch, rề rà, gây khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ công tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công chức, viên chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích công việc cho người dân một cách lòng vòng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình và sự thân thiện khi tiếp công dân.
Nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chủ yếu do:
Thứ nhất, năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, công chức, viên chức còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một số cán bộ, công chức, viên chức có năng lực công tác, phẩm chất đạo đức còn hạn chế trong thực hiện, công vụ, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của bộ máy công quyền.
Thứ hai, lãnh đạo cơ quan chưa thật sự gương mẫu về đạo đức, lối sống và trách nhiệm trong công việc. Sự thiếu quan tâm đúng mức cũng như thiếu sự gương mẫu trong công việc và cuộc sống của lãnh đạo đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục tinh thần trách nhiệm, cũng như xử lý trách nhiệm nghiêm đối với các trường hợp vi phạm đạo đức công vụ. nên chưa thật sự có tính răn đe, làm gương.
Thứ ba, việc ban hành chính sách, pháp luật của Nhà nước chậm, thiếu quyết liệt trong thực thi nên hiệu quả chưa cao. Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ chức và thủ trưởng đơn vị cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu đồng bộ.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, mang tính hình thức. Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cán bộ, công chức nhận thức rằng mình là “đầy tớ” của dân, cần hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Giải pháp nâng cao đạo đức công vụ cho công chức, viên chức
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, đan xen hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, ngang tầm, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng, đào tạo được một lực lượng lao động có chất lượng cao. Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hành vi vi phạm đạo đức công vụ, có cơ chế xử lý nghiêm khắc. Đối với công chức, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh là cơ sở để hoàn thiện hệ thống thể chế về đánh giá, giám sát hoạt động của công chức, đặc biệt là cơ chế giám sát trực tiếp từ phía nhân dân. Kết quả đánh giá công chức khách quan, trung thực vừa là cơ sở để tiến hành đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật, vừa thúc đẩy vai trò tích cực của công chức trong hoạt động quản lý.
Mặc dù pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ ở Việt Nam đã được quy định trong một số luật liên quan đến công chức, viên chức như: Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Tuy nhiên, chưa xây dựng luật riêng quy định cụ thể về đạo đức công vụ. Do đó, để đáp ứng yêu cầu về tăng cường xây dựng đạo đức công vụ trong bối cảnh mới hiện nay, cần nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Đạo đức công vụ hay Luật Đạo đức của công chức. Việc ban hành luật này không những có tác dụng nêu lên các nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức công vụ, mà còn đưa ra những quy định cụ thể về mục đích đạo đức, hành vi đạo đức và công cụ đạo đức trong quá trình cán bộ, công chức tiếp xúc, làm việc với cơ quan, xã hội, doanh nghiệp và người dân. Việc ban hành luật này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát việc thực thi đạo đức công vụ.
Có chế tài cụ thể hơn về khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức. Về nguyên tắc, tất cả công chức vi phạm pháp luật không thể ở lại cơ quan hành chính nhà nước, sẽ “tạo ra tấm gương xấu” cho xã hội. Kiên quyết xử lý ngay vi phạm chuẩn mực pháp lý về thực thi công vụ; thi hành pháp luật. Đồng thời có cơ chế khen thưởng xứng đáng cho những ai “chấp hành nghiêm chỉnh chuẩn mực pháp lý”, bằng cả vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, gương mẫu của công chức trong thực thi công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của đội ngũ công chức mà của toàn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cũng như toàn xã hội, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức Việt Nam sẽ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ và đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức công vụ. Giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức giúp họ hiểu được giá trị của đạo đức công vụ và tiêu chuẩn hành vi trong thực thi công vụ, qua đó khơi dậy động cơ đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo đức của cán bộ, công chức. Cốt lõi của giáo dục đạo đức công vụ là làm cho cán bộ, công chức hiểu được vai trò và nghĩa vụ của mình, hiểu được giá trị và ý nghĩa của công việc mà bản thân mình đang thực hiện; nắm được các tiêu chuẩn hành vi trong thực thi công vụ. Các nước OECD đã thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức công vụ, chịu trách nhiệm chính trong việc thiết kế chương trình đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức công vụ; tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho các đối tượng khác nhau. Việc đào tạo, bồi dưỡng không nặng về lý thuyết, coi trọng hơn thực hành đạo đức công vụ, giúp cho người học có khả năng đưa ra lựa chọn hợp lý trong bối cảnh có sự xung đột giữa lợi ích tư và lợi ích công.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Hoạt động kiểm tra, giám sát về việc thực hiện đạo đức công vụ cần được tiến hành thường xuyên dưới các hình thức báo cáo, kiểm tra đột xuất, lấy ý kiến của người dân… Thông qua kiểm tra, giám sát, lãnh đạo hiểu đạo đức công vụ được thực hiện thế nào, hiệu quả ra sao, còn hạn chế những gì nhằm bổ sung, sửa đổi, ngăn chặn các nội dung sai lệch với việc thực hiện đạo đức công vụ. Xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện đạo đức công vụ nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm của công chức và bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, đổi mới công tác tuyển chọn, đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ. Để xây dựng đạo đức công vụ không chỉ dựa vào sự nỗ lực tự giác của mỗi cán bộ, công chức trong phấn đấu, rèn luyện về đức và tài, không chỉ đòi hỏi cần phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, mà phải chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ chức, khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ (cách dùng người). Dùng người không đúng, không công tâm, khách quan, không vì sự nghiệp chung sẽ có hại cho dân, cho nước, sẽ suy yếu văn hóa đạo đức. Vì thế, phải cải cách thể chế, đổi mới công tác cán bộ theo hướng đánh giá đúng cán bộ và sử dụng đúng cán bộ, thực hiện dân chủ hóa trong công tác cán bộ, khắc phục hiện tượng bổ nhiệm và sử dụng cán bộ không theo năng lực, yếu kém về phẩm chất. Đây là giải pháp then chốt về xây dựng đạo đức công vụ ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
Tóm lại, nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức là một đòi hỏi tất yếu và cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giúp mang lại giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng và nâng cao đạo đức công vụ trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, công chức; đồng thời, là sự nỗ lực chung của các tổ chức đoàn thể của toàn xã hội. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của đội ngũ công chức mà của toàn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và xã hội, đạo đức công vụ của công chức, viên chức Việt Nam sẽ đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới hiện nay./.
Theo Tapchicongsan.org.vn
Tags:
Tác giả: Tapchicongsan.org.vn
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Xếp hạng: 0 - 0 phiếu bầu
- Đất nước 90 mùa xuân có Đảng (03/02/2020)
- Đảng Cộng sản Việt Nam - Chín mươi năm kiên định và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin (28/01/2020)
- Hồ Chí Minh với xây dựng Đảng chân chính cách mạng, xây dựng Đảng về đạo đức (28/01/2020)
- Đoàn kết - giá trị vĩnh cửu của tư tưởng Hồ Chí Minh (25/01/2020)
- “Lòng tin tưởng” (24/01/2020)
- Dân tin không có “vùng cấm” (21/01/2020)
- Đổi mới công tác bầu cử trong Đảng - tiếp cận từ phương diện đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng (20/01/2020)
- Phòng và chống tệ cơ hội chính trị hiện nay (16/01/2020)
- Tuyên truyền bảo đảm vui Xuân, đón Tết lành mạnh, tiết kiệm và an toàn (10/01/2020)
- Hoàn thiện mô hình ủy ban kiểm tra đảng các cấp nhằm tối ưu hóa kiểm soát quyền lực gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng (02/01/2020)