Sau 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 (mùng 2 Tết Nguyên đán năm Tân Tỵ), Bác Hồ qua cột mốc 108 biên giới Việt - Trung về Việt Nam. Đây là một sự kiện lớn trong lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước Việt Nam, từng bước đưa dân tộc Việt Nam đi tới những mùa Xuân thắng lợi.
Mùa xuân năm 1941 thực sự là một mùa xuân kỳ diệu, đó là mùa xuân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Ngày 28-1-1941 (mùng 2 Tết Tân Tỵ), Bác Hồ trở về nước qua mốc 108 (cũ), tại thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Ngay từ khi trở về Cao Bằng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã bắt tay vào việc xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Mùa xuân và Đảng quyện chặt nhau, mùa xuân cho ta cuộc sống mãi xanh tươi, đó là tình cảm thiêng liêng, sâu thẳm của mỗi con Lạc cháu Hồng đất Việt.
Xuân Canh Ngọ 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Lịch sử vẫn còn ghi, năm 1911 Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc rời bến cảng Nhà Rồng bôn ba tìm đường cứu nước từ Paris đến Luân Đôn, Matxcơva, đã tìm được hạt giống đỏ “chiếc cẩm nang thần kỳ” - chủ nghĩa Mác - Lênin để giải phóng dân tộc bị áp bức, xây dựng nền độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng những điều kiện cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Năm 1924, Người rời đất nước Nga Xô viết trở về phương Đông Quảng Châu, Trung Quốc hoạt động. Hạt giống đỏ cách mạng được nẩy mầm từ đây. Những nhà hoạt động cách mạng như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai... được Nguyễn Ái Quốc gặp gỡ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Cuối năm 1929, tại đây Người đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam vào dịp Tết Canh Ngọ năm 1930.
Sau khi thoát khỏi nhà tù ở Hồng Kông vào cuối năm 1932 và có thời gian hoạt động tại Trung Quốc, đầu năm 1934, Bác Hồ trở lại Moskva và năm 1938 về lại Quảng Châu. Đầu năm 1940, Người gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở Côn Minh vừa từ Việt Nam sang. Sau ngày 20-6-1940, được tin Paris bị quân phát xít Đức chiếm, Bác liền triệu tập một cuộc họp Ban Hải ngoại của Đảng, phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”(1). Sau một thời gian khảo sát, tìm hiểu của các cộng sự, với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Người đã phát hiện Cao Bằng là nơi hội đủ cả “thiên thời, địa lợi và nhân hòa” để xây dựng căn cứ địa cách mạng, nơi “đi đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc” từ đó mở rộng ra toàn quốc.
Tháng 10-1940, khi chính thức quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”. Tầm nhìn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chọn Cao Bằng có ý nghĩa chiến lược lớn, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa một địa phương với toàn quốc, giữa phong trào cách mạng một vùng với phong trào cách mạng cả nước, nhận thức, đoán định được hiện tại và triển vọng tương lai. Trong thời gian chuẩn bị về nước, Người còn tổ chức một lớp huấn luyện chính trị cho 40 thanh niên Việt Nam yêu nước tại Nặm Quang, Ngàm Tảy (Trung Quốc), trong đó chủ yếu là người Cao Bằng làm hạt nhân cho việc xây dựng phong trào cách mạng ở địa phương sau này. Chương trình huấn luyện gồm 3 phần chính: tình hình thế giới và trong nước; tổ chức đoàn thể quần chúng; cách điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện và đấu tranh cách mạng. Lớp huấn luyện cấp tốc này để chuẩn bị nhân lực cho cách mạng trong tình hình mới.

Bác Hồ về Pác Bó, Cao Bằng (ngày 28-1-1941). Tranh: Trịnh Phòng
Trong thời gian đi tìm đường cứu nước, Người đã đi qua 28 quốc gia trên thế giới, chứng kiến nỗi khổ của người dân lao động các nước, Người nhận ra một điều là ở đâu người dân mất nước cũng cực khổ như nhau, và người vô sản cần liên hợp lại để đấu tranh giành độc lập. Chỉ có dân tộc được độc lập thì người dân mới có được tự do, hạnh phúc.
Hơn mười năm sau mùa xuân lịch sử đó, ngày đầu xuân 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Thế An, Đặng Văn Cáp, Hoàng Văn Lộc đã trở về đất nước, vượt qua mốc 108 biên giới Việt Nam - Trung Quốc, về đến Pác Bó (xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng), một nơi “bí mật” có “hàng rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui”. Người quyết định chọn Pác Bó làm điểm “đứng chân” xây dựng căn cứ địa trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước có nhiều diễn biến mới.
Bác về nước đúng vào mùa xuân, mùa tươi đẹp nhất của đất trời, mùa của trăm hoa đua nở. Bước chân đầu tiên về đất mẹ cũng là giây phút Người lắng nghe sự sống của sinh thể đất nước đang phôi thai. Nhà thơ Chế Lan Viên đã diễn tả lại hình ảnh ấy bằng những câu thơ đầy xúc động:
... Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai...
Người về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cả thiên nhiên đất trời như reo vui:
...Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ... (Thơ Tố Hữu).
Để giữ bí mật, những ngày đầu về nước, Người tạm nghỉ ở nhà ông Lý Quốc Súng (Máy Lỳ), dân tộc Nùng, ở thôn Pác Bó. Sau đó, để tiện cho công tác, Người chuyển đến ở và làm việc tại hang Cốc Bó, một hang núi kín đáo ở Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng, nằm ở lưng chừng sườn núi Các Mác. Dưới chân núi có chiếc bàn đá làm việc của Bác nằm bên cạnh đầu nguồn của suối Lê-nin. Chiếc bàn đá và cửa hang trên sườn núi nhìn xuống hồ nước trong xanh, thấy cá lội và bóng cây rừng, núi đá.
Tại đây, Người mang bí danh “Già Thu”, “Cụ Thu Sơn”, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng các đoàn thể Cứu quốc ở Cao Bằng. Người mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ, lược dịch cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, biên soạn Cách đánh du kích, Cách huấn luyện cán bộ quân sự, để làm tài liệu học tập. Các lớp huấn luyện do Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo trong thời kỳ này, dù thời gian dài hay ngắn, học viên nhiều hay ít, bao giờ Người cũng chuẩn bị rất chu đáo nội dung huấn luyện, nắm rất chắc tình hình cách mạng và trình độ học viên; những vấn đề trừu tượng, phức tạp luôn được Người diễn giải bằng một hình thức giản dị, dễ hiểu, liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tế, học đến đâu hành đến đấy; nội dung huấn luyện được sắp xếp khéo léo từ dễ đến khó, từ thấp đến cao; công việc giáo dục, huấn luyện được Người tiến hành không chỉ ở trên lớp học mà cả trong công tác và trong sinh hoạt hàng ngày.
Người bắt đầu sống và làm việc tại đây và nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới. Mặc dù thiếu thốn, gian khổ, nhưng tâm hồn của Bác luôn ung dung, thanh thản, tràn đầy một tinh thần lạc quan cách mạng đúng như trong lời thơ của Người:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Ngày ngày, Người dậy sớm tập thể dục, leo núi rồi xuống suối tắm, sau đó bắt tay vào công việc. Có khi xuống làng hỏi chuyện đồng bào, có khi lên núi hái củi cùng anh em, tối về tranh thủ bồi dưỡng kinh nghiệm hoạt động cách mạng cho cán bộ…
Ngay trong tiết Xuân ấm áp của ngày đầu trở về Tổ quốc, từ nơi đầu nguồn thiêng liêng, Bác đã có cảm hứng với cảnh vật nên làm bài thơ đầu tiên tựa đề “Pác Bó hùng vĩ”:
Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà.
Trước sự biến động sâu sắc của tình thế cách mạng trên thế giới, phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật của nhân dân ta đang trên đà phát triển, thời cơ thuận lợi đang đến gần, tháng 5/1941, tại lán Khuổi Nậm, thôn Pác Bó, Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương do Người trực tiếp chủ trì đã quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng, tập hợp lực lượng toàn dân đứng lên để “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; tổ chức xây dựng căn cứ địa cách mạng, tích lũy lương thực, súng đạn, chuẩn bị tiền đề vật chất cho tổng khởi nghĩa cách mạng giành chính quyền. Đây là quyết sách đúng đắn, sáng tạo và kịp thời mang đầy sức sống mùa xuân, tạo nên cao trào cách mạng rộng khắp, tiến tới tổng khởi nghĩa thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tại Pác Bó, Người đã nhóm lên ngọn lửa cách mạng và đã bùng cháy, lan tỏa ra khắp cả nước, soi sáng, dẫn đường cho toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và mùa Xuân Bính Tuất năm 1946 là mùa Xuân độc lập đầu tiên của dân tộc đã trở về trên toàn cõi đất nước ta. Tiếp đó, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” 1954 và kết thúc trọn vẹn bằng Đại thắng mùa Xuân 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế… Tất cả những thắng lợi ấy đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bác Hồ về nước mùa Xuân năm 1941 là một mùa xuân đặc biệt, đó là mùa xuân đầu tiên Bác Hồ trở về Tổ quốc, sau 30 năm tìm đường cứu nước, hoạt động ở nước ngoài, để từ đó trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cùng Đảng ta đem lại những mùa xuân cho dân tộc.
Ths Nguyễn Thanh Hoàng
(1) Vũ Anh: Bác Hồ về nước, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986, tr.14-15.