Tỉnh Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.199,6 km2, có 09 đơn vị hành chính cấp huyện, dân số 1.425.698 người, với trên 82 nghìn người thuộc 35 DTTS, chiếm tỷ lệ 5,8% dân số toàn tỉnh; có 28 xã, thị trấn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; có 66 thôn đặc biệt khó khăn; có 3 dân tộc còn gặp nhiều khó khăn theo Quyết định số 1227/QĐ-TTg ngày 14/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, gồm: dân tộc Raglai, Ê đê, Cơ ho (T’rin).
Công tác tuyên tuyền, quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận số 65-KL/TW
Thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới (gọi tắt là Kết luận 65), Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TU, ngày 02/3/2020 về thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới (gọi tắt là Chỉ thị 25); đồng thời chỉ đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy tham mưu tổ chức phổ biến, quán triệt cho cán bộ chủ chốt của tỉnh; chỉ đạo các cấp ủy đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức quán triệt, phổ biến Kết luận 65 và Chỉ thị 25. Trong 5 năm, cấp ủy các cấp đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phối hợp tổ chức được 101 Hội nghị tuyên truyền, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc cho 6855 lượt người tham dự. Ngoài ra, Ban Dân tộc tỉnh đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban Dân tộc và các sở, ban, ngành, địa phương tổ chức 04 hội nghị tập huấn, bồi dưỡng cho 353 lượt người có uy tín.

Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Khánh Hòa lần thứ IV
Kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách về công tác dân tộc
Trong 05 năm, công tác đào tạo nghề, tạo việc làm nhằm ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập cho lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) luôn được quan tâm, chú trọng, với mục tiêu là đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. đã tổ chức đào tạo 2.370 lao động người đồng bào DTTS với tổng kinh phí 4.639.137.000đ. Các địa phương tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá và phát huy thế mạnh của từng địa phương, xây dựng quy hoạch và hình thành các vùng sản xuất chuyên canh như: Huyện Khánh Sơn vùng trồng Sầu riêng 2.300ha, huyện Khánh Vĩnh vùng trồng Bưởi da xanh khoảng 700ha; ngoài ra, còn có một số vùng trồng xen ghép như: Mía tím, chuối, chôm chôm, măng cụt, nuôi dê, bò, gia cầm… tạo ra các loại sản phẩm hàng hoá, sản phẩm đặc trưng của từng địa phương có giá trị kinh tế cao. Tập trung chỉ đạo nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, xây dựng mỗi xã 01 sản phẩm Ocoop (tính đến cuối năm 2023, trên địa bàn tỉnh có 201 sản phẩm của 108 chủ thể (47 Doanh nghiệp, 20 Hợp tác xã, 19 Tổ hợp tác, 22 hộ kinh doanh) được UBND tỉnh và UBND cấp huyện công nhận và xếp hạng đạt từ 03 sao trở lên, trong đó có 01 sản phẩm có số điểm đạt 05 sao, 18 sản phẩm đạt 04 sao và 182 sản phẩm đạt 03 sao); xúc tiến đăng ký mã vùng trồng để phục vụ cho xuất khẩu nông sản của địa phương ra nước ngoài. Thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi cây trồng trên địa bàn tỉnh, các địa phương vùng đồng bào DTTS&MN đã chuyển đổi trên 212 ha đất trồng cây kém hiệu quả sang cây trồng nông nghiệp có giá trị kinh tế cao.
- Kết quả thực hiện chủ trương, chính sách về giải quyết tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai: Giai đoạn 2021 - 2025: hỗ trợ đất ở cho 176 hộ; xây mới nhà ở cho 1.470 hộ; hỗ trợ chuyển đổi nghề cho hộ nghèo thiếu đất sản xuất: 853 hộ; hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 1.046 hộ và đầu tư 08 công trình hệ thống nước sinh hoạt tập trung để cấp nước cho người dân.
- Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng về ưu tiên nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: Tổng vốn đầu tư 05 năm trên địa bàn vùng đồng bào DTTS&MN của tỉnh là 5.600 tỷ đồng, trong đó vốn 03 chương trình mục tiêu quốc gia 1.600 tỷ đồng; vốn các chương trình, đề án, dự án khác 4.000 tỷ đồng. Hiện nay, một số công trình trọng điểm đã và đang được triển khai đầu tư xây dựng sẽ tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN như: Đường giao thông từ Quốc lộ 27C đến đường ĐT656 tỉnh Khánh Hòa (1.930 tỷ đồng); Hồ chứa nước Sông Chò 1 (Khánh Vĩnh, 956 tỷ đồng); Hệ thống dẫn nước Hồ Sông Chò 1 (1.400 tỷ đồng); Đập dâng, hệ thống kênh Hồ Sông Chò 1 (550 tỷ đồng); Hồ chứa nước Sơn Trung (Khánh Sơn, 265 tỷ đồng); Hồ chứa nước Sông Búng (Ninh Hòa, 793 tỷ đồng); Hồ chứa nước Sông Cạn (Cam Ranh, 768 tỷ đồng)
- Kết quả xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào DTTS và miền núi: Đến tháng 8/2024, vùng đồng bào DTTS&MN đã có 03/28 xã đạt chuẩn nông thôn mới, số tiêu chí đạt chuẩn bình quân chung trên địa bàn 28 xã là 13,9 tiêu chí/xã. Theo Kế hoạch số 6214/KH-UBND ngày 10/6/2024 của UBND tỉnh, phấn đấu đến hết năm 2025 có 11 xã thuộc vùng đồng bào DTTS&MN đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
Công tác phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS&MN luôn được chú trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nhằm đào tạo nguồn cán bộ và nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đến nay, 100% trường, lớp ở vùng đồng bào DTTS được cứng hoá và 61,9% trường học có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia. Công tác phổ cập giáo dục các cấp được duy trì, củng cố và phát triển tốt; tỷ lệ các cháu mầm non người DTTS đến lớp đạt 11,9% đối với độ tuổi nhà trẻ và 91% đối với độ tuổi mẫu giáo; tỷ lệ trẻ em người DTTS nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học đạt 90,0%; trung học cơ sở 97,9%; học trung học phổ thông và trung cấp nghề 69,8%; tỷ lệ người DTTS hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%; tỷ lệ người DTTS từ 10 tuổi trở lên biết chữ đạt 93,7%..
Công tác khám bệnh, chữa bệnh và phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn vùng đồng bào DTTS&MN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, như: cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của bệnh viện được xây dựng, cải tạo, nâng cấp; khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế thuận lợi hơn. Đến nay, 100% Trạm y tế được đầu tư xây dựng kiên cố; 100% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; tổng số giường bệnh của huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh là 190 giường (chưa tính giường trạm y tế xã); 100% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc luân phiên và Y sĩ sản nhi Nữ hộ sinh; tỷ lệ người dân được quản lý, theo dõi sức khỏe >90%, đạt các chỉ tiêu về y tế dự phòng và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm khám định kỳ đạt 77,5%; tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế 98,5%; 100% đồng bào DTTS được tham gia BHYT; 100% đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
Về văn hóa: giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2024, ngành văn hóa và thể thao tỉnh Khánh Hòa đã triển khai nhiều chương trình hoạt động bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống các DTTS. Các giá trị di sản văn hóa truyền thống của các DTTS được kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền, bảo tồn và phát huy giá trị; các văn hóa vật thể tiêu biểu, có giá trị như mã la, cồng chiêng, trống, ché, nồi, đồng, đồ dùng sinh hoạt... được đồng bào DTTS bảo tồn và phát huy giá trị; thực hiện phục dựng và bảo tồn các Lễ hội truyền thống như: Lễ ăn mừng đầu lúa mới, Lễ tạ ơn nghĩa cha mẹ, Lễ cúng bến nước... Các cơ quan, địa phương nghiên cứu, xây dựng chính sách hỗ trợ các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy trong cộng đồng người DTTS lưu truyền, phổ biến các giá trị văn hoá truyền thống; hỗ trợ đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị cho hơn 80 thiết chế văn hoá, thể thao các thôn; xây dựng 17 tủ sách cộng đồng; hỗ trợ hoạt động 31 đội văn nghệ... tại các thôn vùng DTTS&MN. Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao tiêu biểu, đặc trưng của các DTTS trên địa bàn tỉnh thông qua các hoạt động như hội thao, hội thi, hội diễn, liên hoan, ngày hội... tại “Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4", ngày Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam 18/11, Chương trình Đại hội thể dục thể thao định kỳ... nhằm thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó, tương thân, tương ái giữa đồng bào các dân tộc trên địa bà tỉnh.
Công tác phát triển đảng viên trong vùng DTTS được các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đảng bộ tỉnh đã kết nạp được 599 đảng viên là người DTTS, chiếm tỷ lệ 7,00% (599/8.555) tổng số đảng viên kết nạp; riêng 9 tháng đầu năm 2024 kết nạp 140 đảng viên, chiếm tỷ lệ 7,75% (140/1.807) tổng số đảng viên kết nạp. Tỷ lệ đảng viên là người DTTS trên tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ tỉnh ngày càng tăng (năm 2020 tỷ lệ này là 3,61%, năm 2021 là 3,64%, năm 2022 là 3,71%, năm 2023 là 3,85%, 9 tháng đầu năm 2024 là 3,98%).
Nhìn chung, sau 05 năm thực hiện Kết luận 65, vùng đồng bào DTTS &MN trong tỉnh luôn được các cấp uỷ đảng, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai huy động tối đa các nguồn lực, ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ cho đầu tư phát triển phát triển kinh tế - xã hội... đã góp phần làm cho bộ mặt nông thôn vùng đồng bào DTTS&MN có nhiều khởi sắc, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, học tập, lao động sản xuất và đời sống của người dân; nhiều mô hình hỗ trợ, đầu tư phát triển sản xuất hiệu quả được triển khai và nhân rộng, góp phần nâng cao thu nhập, giảm nghèo; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân của người DTTS: 26 triệu đồng/người/năm, tăng 1,9 lần so với năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm 6,2% năm, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông, 100% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa, 100% trường, lớp ở vùng đồng bào DTTS được cứng hoá và 61,9% trường học có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia, 100% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp, 100% đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, được xem truyền hình và nghe đài phát thanh, 95,4% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS đạt 65,8%.
Để tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả Kết luận 65 và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh trong tình hình mới, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên về công tác dân tộc; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; triển khai thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045; Chỉ thị số 25-CT/TU, ngày 02/3/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới gắn với việc tiếp tục triển khai, thực hiện các chương trình, chính sách về công tác dân tộc, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt Chương trình hành động số 30- CTr/TU, ngày 23/2/2022 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 28/01/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở các cấp, các ngành trong toàn tỉnh. Tập trung huy động các nguồn lực triển khai thực hiện có hiệu quả các dự án, nhiệm vụ, các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 - 2030. Trọng tâm là tiếp tục đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên đầu tư cho các xã, thôn đặc biệt khó khăn, các công trình dự án trọng điểm để tạo điều kiện, động lực cho sự phát triển, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đường giao thông, công trình thủy lợi, chợ, cơ sở vật chất và thiết bị trường học. Xây dựng, bổ sung các chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở vùng đồng bào DTTS&MN để tạo việc làm, sinh kế cho người dân và tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đồng bào các dân tộc. Tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng DTTS và miền núi; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ người DTTS; đẩy mạnh phát triển đảng viên là đồng bào DTTS; tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn miền núi; tăng cường công tác giảm nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Bốn là, chủ động giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc mà thực tiễn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đang đặt ra; đảm bảo nguồn lực đầu tư phát triển theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Tạo điều kiện thuận lợi để các lực lượng xã hội, tổ chức, cá nhân tham gia vào các nhiệm vụ về công tác dân vận chính quyền trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi gắn với tăng cường huy động các nguồn xã hội hóa để thực hiện tốt các chính sách dân tộc, miền núi. Nghiên cứu, đề xuất thực hiện công tác giảm nghèo theo hướng giảm hình thức đầu tư trực tiếp, các chính sách nhỏ lẻ, không cần thiết.
Năm là, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc thực hiện các chính sách dân tộc, các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng DTTS và miền núi; nắm chắc tình hình tư tưởng của đồng bào các DTTS và đề nghị cấp ủy, chính quyền các cấp giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, nổi cộm phát sinh. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân thông qua việc thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để Nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Sáu là, chú trọng phát hiện, xây dựng và tổ chức bồi dưỡng đối với lực lượng cốt cán, già làng tiêu biểu, người có uy tín để làm công tác vận động quần chúng; tăng cường vận động, tranh thủ người có uy tín trong đồng bào DTTS tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội ở vùng DTTS và miền núi; vận động người dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu, thực hiện đời sống văn hóa mới; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Bùi Thanh Trúc - Ban Dân vận Tỉnh ủy